1. Tiền Sử
a. Đặc điểm nổi bật:
Kết quả nghiên cứu hiện nay cho thấy cách đây khoảng 300.000 năm, loài người đã có mặt trên lãnh thổ nước ta. Dấu tích những chiếc răng vừa có đặc tính của người vừa có đặc tính của vượn (trong đó đặc tính của người là đặc tính trội) phát hiện ở Thẩm Hai, Thẩm Khuyên (nay thuộc tỉnh Lạng Sơn) đã tự nói lên điều đó. Với phát hiện này, các nhà sử học Việt Nam đã cho rằng Việt Nam là một trong những cái nôi của loài người.
Ở nhiều khu vực khác trên thế giới, thời tiền sử thường chỉ tương ứng với thời đồ đá, bước sang thời đồ đồng thì cũng có nghĩa là đã bước sang thời đại có nhà nước. Nhưng kết quả nghiên cứu của giới sử học Việt Nam trong hàng chục năm qua lại cho một kết luận khác hơn, rằng: Thời tiền sử ở Việt Nam không chỉ bao gồm toàn bộ thời đồ đá mà còn băng qua cả toàn bộ thời đồ đồng. Có thể nói, đây là đặc điểm nổi bậc nhất.
b. Các giai đoạn lớn của thời tiền sử:
- Giai đoạn đồ đá:
Mở đầu cách nay khoảng 300.000 năm
Chấm dứt cách nay khoảng 4000 năm
Giai đoạn đồ đá bao hàm bốn chặng lớn:
Đồ đá cũ: với các nền văn hóa tiêu biểu như Thẩm Hai, Thẩm Khuyên, Núi Đọ, Sơn Vi…, mở đầu cách nay khoảng 300.000 năm và chấm dứt cách nay khoảng 11.000 năm.
Đồ đá giữa: với nền văn hóa tiêu biểu nhất là Hòa Bình, có niên đại mở đầu cách nay khoảng 11.000 năm và chấm dứt cách nay khoảng trên 9000 năm.
Đồ đá mới: với các nền văn hoá tiêu biểu như Bắc Sơn, Quỳnh Văn, Bào Tró, Hạ Long…, mở đầu cách nay khoảng trên 9000 năm và chấm dứt cách nay khoảng 4000 năm
Đỉnh cao tột cùng của đồ đá mới: thể hiện tập trung ở văn hoá Phùng Nguyên. Đây cũng là giai đoạn sơ kỳ của giai đoạn đồ đồng ở Việt Nam
- Giai đoạn đồ đồng:
Mở đầu cách nay khoảng 4000 năm.
Bị thay thế dần bởi đồ sắt cách nay khoảng 2500 năm
Giai đoạn đồ đồng ở Việt Nam bao hàm bốn chặng lớn:
Sơ kì: với nền văn hoá tiêu biểu là Phùng Nguyên, niên hiệu mở đầu cách nay khoảng 4000 năm.
Trung kì: với nền văn hoá tiêu biểu là Đồng Đậu, có niên đại mở đầu cách nay khoảng 3300 năm.
Hậu kì: với nền văn hóa tiêu biểu là Gò Mun, có niên đại cách ngày nay khoảng 3100 năm.
Đỉnh cao tột cùng: với nền văn hóa tiêu biểu là Đông Sơn, có niên đại mở đầu cách nay khoảng 2800 năm. Ở khoảng giữa của văn hóa Đông Sơn, đồ sắt bắt đầu xuất hiện. Từ Đông Sơn và trên cơ sở Đông Sơn, sự chuyển hóa của xã hội diễn ra ngày một mạnh mẽ. Nhà nước ra đời.
2. Thời Sơ Sử
a. Khung niên đại:
Về niên đại mở đầu, tất cả các bộ chính sử trước đây đều lấy năm Nhâm Tuất (2879 TCN). Khoa học lịch sử hiện đại đã bác bỏ niên đại mở đầu này. Hiện nay, niên đại mở đầu của thời sơ sử ở Việt Nam được xác định là cách ngày nay khoảng từ 2600 năm đến 2500 năm.
Về niên đại kết thúc, tất cả các bộ chính sử trước đây đều lấy năm 208 TCN. Khoa học lịch sử hiện đại đã bác bỏ niên đại kết thúc này. Hiện nay, niên đại kêt thúc của thời sơ sử được xác định là năm 179 TCN, năm Triệu Đà đánh bại An Dương Vương và xác lập nền đô hộ ở nước ta.
b. Hai giai đoạn lớn của thời sơ sử:
Thời sơ sử (hay thời dựng nước) ở nước ta bao gồm hai giai đoạn lớn:
Giai đoạn Hùng Vương với nước Văn Lang, mở đầu cách đây khoảng từ 2600 năm đến 2500 năm và chấm dứt vào năm 208 TCN (tức là cách nay 2200 năm). Sử cũ có nói đến 18 đời Hùng Vương với những tên gọi rất cụ thể. Tuy nhiên, đó chỉ là lịch sử hóa các chuyện kể dân gian chứ không phải là lịch sử. Văn Lang là một giai đoạn có thật của lịch sử Việt Nam, nhưng sự thật lịch sử về Văn Lang không hoàn toàn như mô tả của sử cũ. Kinh đô của Văn Lang xưa, được xác định là khu vực huyện Phong Châu của tỉnh Phú Thọ ngày nay.
Giai đoạn An Dương Vương với nước Au Lạc, mở đầu năm 208 TCN và kết thúc năm 179 TCN (tức là tồn tại trước sau khoảng 30 năm). Kinh đô của Au Lạc là Cổ Loa (nay thuộc huyện Đông Anh-Hà Nội)
Tuy có hai giai đoạn như đã trình bày ở trên, nhưng do chỗ giai đoạn sau quá ngắn, vả lại, tính chất chung của cả hai giai đoạn cũng không có gì khác biệt lớn, vì thế các nhà sử học vẫn gộp lại mà gọi chung là thời sơ sử, thời dựng nước, hoặc thậm chí cũng có khi gọi đó là thời Hùng Vương.
3. Thời Bắc Thuộc
a. Khung niên đại:
Các bộ chính sử trước đây đều lấy năm 111 TCN (năm nhà Tây Hán lật đổ Nam Việt rồi thay Nam Việt thống trị nước ta) là năm mở đầu. Khoa học lịch sử hiện đại đã bác bỏ niên đại này. Và thay vào đó là năm 179 TCN, năm Triệu Đà (vua Nam Việt) đã đánh bại An Dương Vương, thiết lập nền đô hộ đối với nước ta.
Các bộ chính sử cũng lấy năm 938 (năm Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán) hoặc năm 968 (năm Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong Loạn 12 Sứ quân và lên ngôi Hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng) là năm kết thúc thời Bắc thuộc. Khoa học lịch sử chọn năm 905 (năm Khúc Thừa Dụ đã khôn khéo thiết lập nền độc lập và tự chủ), vì cho rằng kể từ đây, nền đô hộ của các triều đại Phong kiến Trung Quốc đối với nước ta đã chấm dứt.
b. Các triều đại Phong kiến Trung Quốc đã nối nhau thống trị nước ta trong thời Bắc thuộc (từ 179 TCN đến 905 Sau CN).
NAM VIỆT (họ Triệu): Thành lập năm 206 TCN. Đô hộ nước ta từ năm 179 TCN. Chấm dứt ách đô hộ từ năm 111 TCN. Tổng cộng 68 năm.
TIỀN HÁN (hay Tân Hán – họ Lưu): Thành lập năm 206 TCN, lật đổ Nam Việt rồi thay Nam Việt để đô hộ nước ta từ năm 111 TCN. Chấm dứt ách đô hộ năm 08 sau CN. Tổng cộng 119 năm.
NHÀ TÂN (Vương Mãn): Lật đổ và thay Tiền Hán đô hộ nước ta. Thành lập năm 08, đô hộ nước ta từ năm 08. Chấm dứt ách đô hộ năm 25. Tổng cộng 17 năm.
HẬU HÁN (hay Đông Hán – họ Lưu) dẹp bỏ nhà Tân rồi thay nhà Tân đô hộ nước ta: Thành lập năm 25. Đô hộ nước ta từ năm 25. Chấm dứt ách đô hộ năm 220. Tổng cộng 195 năm.
NHÀ NGÔ (họ Tôn): là một trong 3 nước của thời hỗn chiến Tam Quốc (Ngô, Thục và Ngụy). Đô hộ nước ta từ năm 220. Chấm dứt ách đô hộ năm 280. Tổng cộng 60 năm
NHÀ TẤN (họ Tư Mã): Thống nhất Trung Quốc thay nhà Ngô đô hộ nước ta. Khởi đầu năm 280. Chấm dứt ách đô hộ năm 420. Tổng cộng140 năm
NAM TRIỀU (Tống, Tề, Lương, Trần): Đây là thời loạn lạc của Trung Quốc, sử gọi là thời Nam- Bắc triều. Nam triều với nhiều triều đại khác nhau đã trực tiếp đô hộ nước ta. Khởi đầu năm 420. Chấm dứt ách đô hộ năm 542 (Nam triều còn tồn tại cho đến năm 581, nhưng từ năm 542, ta giành được độc lập nhờ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo). Tổng cộng 122 năm.
NHÀ TÙY (Họ Dương): Thành lập năm 581. Xâm lược và đô hộ nước ta từ năm 602. Chấm dứt ách đô hộ nước ta từ năm 618. Tổng cộng 16 năm.
NHÀ ĐƯỜNG (Họ Lý): Thành lập năm 618. Thay nhà Tuỳ đô hộ nước ta từ năm 618. Chấm dứt ách đô hộ năm 905. Nhà Đường còn tồn tại đến năm 907, nhưng hai năm sau cùng, chúng không còn đủ sức để đô hộ nước ta. Vả chăng, năm 905, họ Khúc đã khôn khéo thiết lập được chính quyền độc lập và tự chủ. Tổng cộng: 287 năm.
c. Tính chất của thời Bắc thuộc
- Dòng nổi bật thứ nhất của lịch sử thời Bắc thuộc là dòng đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Đây là thời đen tối nhất của lịch sử nước nhà trong thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Quân đô hộ đã quyết tâm xóa bỏ cho bằng được nền độc lập và tự chủ của nhân dân ta, vơ vét và bóc lột nhân dân ta một cách rất thậm tệ. Đây cũng là thời mà những âm mưu đồng hóa nguy hiểm được thực hiện rất ráo riết.
- Dòng nổi bật thứ hai của lịch sử thời Bắc thuộc là dòng đấu tranh liên tục và ngoan cường của nhân dân ta. Hàng loạt những cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ, tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ. Điểm lại, chúng ta thấy nổi lên những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất sau đây:
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nổ ra năm 40, chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán (tức Hậu Hán). Hai bà đã dành được chính quyền trong ba năm (40-43). Sử gọi là thời Trưng Nữ Vương
Khởi nghĩa Bà Triệu (tức Triệu Thị Trinh), nổ ra năm 384, chống lại ách thống trị của quân đô hộ nhà Ngô.
Khởi nghĩa Lý Bí (tức Lý Bôn) diễn ra năm 542, chống lại ách đô hộ của nhà Lương (một trong những triều đại của Nam Triều). Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Lý Nam Đế. Đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đặt niên hiệu là Thiên Đức (cũng có sách chép là Đại Đức), trên danh nghĩa nước Vạn Xuân tồn tại đến năm 602.
Khới nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, nổ ra năm 687, chống lại ách đô hộ của nhà Đường.
Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, nổ ra năm 722, chống lại ách đô hộ của nhà Đường, Mai Thúc Loan lên ngôi hoàng đế, xưng là Mai Hắc Đế.
Khởi nghĩa Phùng Hưng (?- 791), chống lại ách đô hộ của nhà Đường, Phùng Hưng đã dành được chính quyền trong môt thời gian khá dài. Ông qua đời (789), con ông là Phùng An đã tôn cha là Bố Cái Đại Vương.
Khởi nghĩa Dương Thanh, nổ ra năm 819, kéo dài đến năm 820, chống lại ách thống trị của nhà Đường.
Lịch sử thời Bắc thuộc tuy có hai dòng hoàn toàn khác nhau, nhưng điều đáng nói nhất là ở chỗ, cuối cùng dòng đấu tranh ngoan cường của nhân dân ta đã dành thắng lợi.
4. Kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất (905- 1527)
Kỷ nguyên này gồm 5 chặng nối tiếp nhau, tuy có những lúc đất nước ta phải chịu những thử thách rất cam go, nhưng xu hướng chung vẫn là phát triển một cách toàn diện và mạnh mẽ, năm chặng này cụ thể như sau:
a. Xây dựng và khẳng định kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất (từ năm 905 đến 1009).
Đây là chặng đường có nhiều dòng họ nối nhau trị vị đất nước.
HỌ KHÚC (905 – 930). Tuy chưa đặt quốc hiệu và niên hiệu, chưa xưng Đế hay xưng Vương, thậm chí còn tự coi mình là quan lại của Trung Quốc, nhưng họ Khúc đã có công đặt nền tảng căn bản đầu tiên cho kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất của nước nhà. Họ Khúc truyền nối được 3 đời, nắm quyền trong 25 năm.
- Khúc Thừa Dụ (905 – 907)
- Khúc Hạo (907 – 917)
- Khúc Thừa Mỹ (917- 930)
HỌ DƯƠNG (931- 937): Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta lần nhất, cuộc kháng chiến do Khúc Thừa Mỹ lãnh đạo đã thất bại. Nhưng ngay lập tức một bộ tướng của của họ Khúc là Dương Đình Nghệ đã đánh đuổi được quân Nam Hán ra khõi bờ cõi. Sau thắng lợi Dương Đình Nghệ đã thành lập chính quyền mới do ông đứng đầu. Sự kiện này tỏ rõ, đến đây, độc lập và tự chủ là xu hướng không thể nào đảo ngược. Năm 937 Dương Đình nghệ bị Kiều Công Tiễn (con nuôi và cũng là bộ tướng của ông) giết hại để tranh đoạt quyền hành.
HỌ NGÔ (938-944): năm 937, được tin Công Tiễn giết hại Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền lập tức đưa quân đến hỏi tội. Hốt hoảng, Kiều Công Tiễn đã đi cầu cứu quân Nam Hán. Ngô Quyền liền giết chết Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán ở Bạch Đằng. Sau đó, ông lên ngôi, đóng đô ở Cổ Loa. Sử gọi là thời Ngô Vương. Ông trị vì được sáu năm. Sau ông, con và cháu ông còn tiếp tục nối nhau trị vì thêm một thời gian nữa, nhưng vai trò của họ Ngô thì kể như đã chấm dứt sau cái chết của Ngô Quyền. Với trận thắng lịch sử ở Bạch Đằng năm 938 và với sự nghiệp kiến thiết đất nước sau chiến tranh, Ngô Quyền đã có công khẳng định một cách hiên ngang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất nước nhà.
HỌ ĐINH (968-980): Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước lâm vào thời kỳ loạn lạc chưa từng thấy. Các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi. Theo quy luật chung, thế lực nào yếu sẽ bị tiêu diệt sớm, thế lực nào mạnh sẽ tồn tại lâu hơn. Đầu nửa sau thế kỷ thứ 10, chỉ còn lại 12 thế lực mạnh, sử gọi đó là loạn 12 sứ quân. Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp tan loạn 12 sứ quân và năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, định đô ở Hoa Lư. Năm 970, ông đặt niên hiệu là Thái Bình. Họ Đinh truyền nối được hai đời:
- Đinh Tiên Hoàng: 968-979
- Đinh Phế Đế (tức Đinh Toàn): 980
Với sự nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân và kiến thiết nước nhà trong những năm trị vì, Đinh Tiên Hoàng là người đã có công hoàn thiện kỷ nguyên độc lập tự chủ và thống nhất của nước nhà. Từ đây, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia trở thành hai mặt bản chất nhất, nổi bật nhất, cũng là quy luật xuyên suốt nhất của lịch sử.
NHÀ TIỀN LÊ (980-1009): Nhà Tiền Lê được lập nên do sự lựa chọn và suy tôn của các quan lại cùng các nhà sư. Bấy giờ, vận nước lâm nguy bởi mưu đồ xâm lăng của nhà Tống mà Đinh Toàn không đủ uy tín, càng không đủ tài năng để điều khiển vận mệnh quốc gia. Là quan Thập đạo Tướng quân, lại đang nắm quyền Phó vương cho Đinh Toàn, Lê Hoàn được suy tôn lên ngôi cũng là điều hợp lý. Nhà Tiền Lê truyền nối được 3 đời, trị vì 29 năm:
- Lê Hoàn (980-1005)
- Lê Trung Tông (3 ngày của tháng 11/1005)
- Lê Long Đĩnh (tức Lê Ngọa Triều: 1005-1009)
Trong thời Tiền Lê, Lê Hoàn là người đã có công rất lớn:
- Đánh tan cuộc xâm lăng của quân Tống vào năm 981.
- Đánh bại sự quấy phá của Chiêm Thành vào năm 982.
- Tiếp tục xây dựng và củng cố kinh đô Hoa Lư, ban hành nhiều chính sách cai trị rất tích cực và tiến bộ.
b. Nước Đại Việt dưới thời Lý (1010-1225)
Triều Lý được thành lập do sự đồng lòng suy tôn của quan lại và các nhà sư cuối thời Tiền Lê, sau khi Lê Long Đĩnh qua đời vào năm 1009.
- Người có công khai sáng triều Lý là Lý Công Uẩn.
- Nhà Lý có mấy cống hiến nổi bật sau đây:
Về chính trị: Thiết lập guồng máy nhà nước của quý tộc họ Lý. Dời đô từ Hoa Lư về Thăng long (1010). Đặt quốc hiệu mới là Đại Việt (1045).
Về quân sự: Đánh bại quân Chiêm ở biên cương phía Nam (1069). Đại phá quân Tống xâm lăng (1077)
Về văn hóa: Tạo điều kiện cho Phật giáo và Đạo giáo phát triển mạnh mẽ.
Mở đường cho nền giáo dục và thi cử Nho học được xác lập và không ngừng đi lên. Đưa các lĩnh vực khác của đời sống văn hóa nước nhà bước vào một giai đoạn hưng thịnh mới.
- Nhà Lý tồn tại trước sau được 215 năm, gồm 9 đời hoàng đế nối nhau trị vì. Cụ thể như sau:
+ Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) :1010-1028
+ Lý Thái Tông (Lý Phật Mã) :1028-1054
+ Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn) :1054-1072
+Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức) :1072-1127
+Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán) :1128-1138
+Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ) :1138-1175
+Lý Cao Tông (Lý Long Trát) :1175-1210
+Lý Huệ Tông (Lý Hạo Sảm) :1210-1224
+Lý Chiêu Hoàng (Lý Phật Kim - công chúa út của Lý Huệ Tông): 1224-1225
c. Nước Đại Việt thời Trần (1226-1400)
- Nhà Trần được thành lập trên cơ sở lợi dụng hôn nhân để lật đổ nhà Lý vốn đã đổ nát từ hàng chục năm trước đó.
- Hoàng đế khởi đầu của nhà Trần là Trần Thái Tông (tức Trần Cảnh – chồng Lý Chiêu Hoàng).
- Nhà Trần có mấy cống hiến lớn sau đây:
Về chính trị: Tái thiết và củng cố guồng máy nhà nước của quý tộc (một hình thức vốn dĩ đã có từ thời Lý). Lập chế độ hai ngôi: Thượng Hoàng và Hoàng Đế nhằm tránh các nạn tranh giành ngôi báu thường có giữa các hoàng tử.
Về quân sự: Xây dựng các lực lượng vũ trang theo phương châm quân sĩ cốt ở tinh nhuệ chứ không phải cốt ở số đông. Ba lần đại phá quân Nguyên Mông xâm lược (lần 1: 1258; lần 2: 1285; lần 3: 1288)
Về văn hóa: Đưa nền giáo dục và thi cử Nho học tiến đến một giai đoạn phát triển mới, rất mạnh mẽ. Trong khi Phật giáo và Đạo giáo vẫn có cơ hội để tiếp tục khẳng định vị trí của mình. Tạo điều kiện cho tất cả các lĩnh vực khác của đời sống văn hóa đi lên, góp phần quan trọng vào việc để lại cho lịch sử dấu ấn sâu sắc văn hóa Lý - Trần.
- Với 13 đời nối nhau trị vì trong 175 năm, nhà Trần gồm các vị Hoàng đế cụ thể sau đây:
+Trần Thái Tông (Trần Cảnh) :1226 – 1258
+Trần Thánh Tông (Trần Hoảng) :1258 – 1278
+Trần Nhân Tông (Trần Khâm) :1278 – 1293
+Trần Anh Tông (Trần Thuyên) :1293 – 1314
+Trần Minh Tông (Trần Mạnh) :1314 – 1329
+Trần Hiến Tông (Trần Vượng) :1329 – 1341
+Trần Dụ Tông (Trần Hạo) :1341 – 1369
+Dương Nhật Lễ (cướp ngôi) :1369 – 1370
+Trần Nghệ Tông (Trần Phủ) :1370 – 1372
+Trần Duệ Tông (Trần Kính) :1372 – 1377
+Trần Phế Đế (Trần Hiện) :1377 – 1388
+Trần Thuận Tông (Trần Ngung) :1388 – 1398
+Trần Thiếu Đế (Trần An) :1398 – 1400
d. Đất nước những năm đầu thế kỷ XV:
- Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập ra nhà Hồ. Thời Hồ có mấy điểm đáng lưu ý sau:
Quốc hiệu mới của ta là Đại Ngu.
Kinh đô mới là Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá ngày nay)
Nhà Hồ truyền được hai đời:
Hồ Quý Ly chỉ ở ngôi một năm (1400)
Hồ Hán Thương (1400 – 1407)
Cuối năm 1406, quân Minh tràn sang xâm lược nước ta, cuộc chiến do nhà Hồ lãnh đạo bị thất bại.
- Từ năm 1407, quân Minh bắt đầu thiết lập nền đô hộ trên toàn cõi nước ta. Thời thuộc Minh tuy không dài nhưng đây cũng là thời đầy bi thương của cả dân tộc.
- Dưới thời Minh, nhân dân ta đã không ngừng nổi dậy đấu tranh dưới nhiều dạng hình thức khác nhau. Dưới đây là những cuộc đấu tranh tiêu biểu:
Khởi nghĩa Trần Ngỗi – Trần Quý Khoáng (1407 – 1413). Cả hai lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa này đều xưng Đế (Trần Ngỗi là Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng là Trùng Quang Đế). Sử gọi đây là thời Hậu Trần.
Khởi nghĩa Phạm Ngọc (1419 – 1420).
Khởi nghĩa Lê Ngã (1419 – 1420).
Phong trào Áo đỏ (1407 – 1427).
Tuy nhiên, lớn nhất và giành được thắng lợi vẻ vang nhất vẫn là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi phát động và lãnh đạo (1418 – 1427)
e. Nước Đại Việt thời Lê Sơ (1428 – 1527)
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc chiến tranh giải phóng, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế. Triều Lê được lập kể từ đó. Trên danh nghĩa triều Lê có lịch sử tri vì lâu nhất, tuy nhiên, không phải lúc nào quyền lực của nhà Lê trên vũ đài chính trị của nước nhà cũng mạnh mẽ như nhau. Căn cứ vào thực trạng này, sử chia triều Lê làm 3 chặng, trong đó chặng đầu tiên gọi là thời Lê Sơ.
Dưới thời Lê, lịch sử có mấy điểm nổi bật sau đây:
Thăng Long được tái lập làm kinh đô.
Quốc hiệu Đại Việt được tiếp tục sử dụng.
Bộ máy nhà nước thời Lê Sơ không phải là bộ máy nhà nước của quý tộc như thời Lý và Trần, ngược lại, đây là bộ máy nhà nước của bá quan văn võ được tuyển chọn trong trăm họ, chủ yếu thông qua con đường thi cử.
Về mặt tư tưởng, thời Lê Sơ là thời Nho giáo chiếm vị trí độc tôn.
Về kinh tế, đây là thời kỳ mà Đại Việt thực sự là một cường quốc trong khu vực.
- Thời Lê Sơ kéo dài 100 năm gồm 11 đời Hoàng đế nối nhau trị vì. Cụ thể là:
+Lê Thái Tổ (Lê Lợi) :1428 – 1433
+Lê Thái Tông (Lê Nguyên Long):1433 – 1442
+Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ) :1442 – 1459
+Lê Nghi Dân (cướp ngôi) :1459 – 1460
+Lê Thánh Tông (Lê Tư Thành) :1460 – 1497
+Lê Hiến Tông (Lê Tranh) :1497 – 1504
+Lê Túc Tông (Lê Thuần) :6 tháng cuối năm 1504
+Lê Uy Mục (Lê Tuấn) :1505 – 1509
+Lê Tương Dực (Lê Oánh) :1510 – 1516
+Lê Chiêu Thống (Lê Y) :1516 – 1522
+Lê Cung Hoàng (Lê Xuân) :1522 – 1527
5. Đất nước trong thời kỳ đổ nát của nền thống nhất quốc gia (1527 – 1801)
Đến đây, độc lập và tự chủ tuy về cơ bản vẫn tiếp tục được giữ vững, nhưng đất nước lại lâm vào cuộc nội chiến triền miên. Nhiều hệ thống chính quyền khác nhau đã đồng thời tồn tại và không ngừng tìm cách thủ tiêu lẫn nhau. Muốn nắm được những nội dung chủ yếu của lịch sử trong giai đoạn này, chúng ta không thể không điểm lại những cục diện chính trị sôi động nhất.
a. Cục diện Nam - Bắc triều hay còn gọi là chiến tranh Lê Mạc (1527 – 1592)
- Năm 1527, Mạc Đăng Dung thay thế ngôi nhà Lê, triều Mạc đóng đô ở Thăng Long (tức là ở phía Bắc) nên sử gọi là Bắc triều.
- Năm 1533, triều Lê được tái lập ở Thanh Hóa (tức ở phía Nam) nên sử gọi là Nam triều. Nam triều tuy danh nghĩa là triều Lê nhưng thực quyền lại nằm trong tay Nguyễn Kim, rồi sau đó là trong tay Trịnh Kiểm và dòng dõi Trịnh Kiểm.
- Từ năm 1533 đến năm 1592, hai bên Nam – Bắc triều đã đánh nhau 38 trận lớn. Kết quả là Nam triều đè bẹp được Bắc triều. Sau năm 1592, tuy họ Mạc vẫn còn tiếp tục hoạt động chống Nam triều thêm một thời gian nữa nhưng về cơ bản vai trò của Bắc triều đến đó coi như đã chấm dứt.
b. Cục diện Đàng Ngoài – Đàng Trong hay còn gọi là thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (1558 – 1786)
- Ngay khi cục diện Nam – Bắc triều chưa chấm dứt, thì một cục diện khác, sôi động và quyết liệt hơn đã hình thành ngay trong lòng Nam triều.
- Năm 1558, tướng của Nam triều là Nguyễn Hoàng đã vào làm Trấn thủ xứ Thanh Hóa. Năm 1570, ông lại được kiêm quản xứ Quảng Nam. Cơ đồ của họ Nguyễn bắt đầu hình thành kể từ đó.
- Nguyễn Hoàng đã thực hiện chính sách hai mặt:
Về công khai thì Nguyễn Hoàng vẫn tỏ rõ là người trung thành với nhà Lê, thực hiện đầy đủ các chức phận của một vị quan ở nơi biên ải.
Về bí mật thì Nguyễn Hoàng ra sức tìm cách gầy dựng cơ đồ riêng.
-Đến đời con Nguyễn Hoàng thì chính sách hai mặt này không còn nữa. Hai bên họ Trịnh và họ Nguyễn đã đánh nhau 7 trận lớn.
-Năm 1672, do thấy không thể tiêu diệt được nhau, hai bên đã lấy sông Gianh (Quảng Bình ngày nay) làm giới tuyến để chia cắt lâu dài.
Từ sông Gianh trở ra Bắc gọi là Đàng Ngoài do họ Trịnh nắm quyền cai trị.
Từ sông Gianh trở vào Nam gọi là Đàng Trong, do họ Nguyễn nắm quyền cai quản.
- Cục diện Đàng Ngoài – Đàng Trong chấm dứt năm 1786 bởi cuộc tấn công của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy.
c. Tây Sơn (1771 – 1801)
- Năm 1771 phong trào Tây Sơn bùng nổ. Phong trào này có 3 giai đoạn mang 3 tính chất khác nhau:
Từ năm 1771 đến năm 1784 là giai đoạn Tây Sơn chiến đấu quyết liệt mà mục tiêu tấn công vào toàn bộ cơ đồ của họ Nguyễn ở Đàng Trong.
Từ năm 1784 đến năm 1789 là giai đoạn Tây Sơn đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ khác nhau:
Đẩy mạnh và mở rộng cuộc tấn công vào các tập đoàn phong kiến thống trị ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài.
Dũng cảm đảm nhận sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc: Tiêu diệt quân Xiêm ở Đàng Trong (1785) và quân Mãn Thanh ở Đàng Ngoài (1789)
Từ năm 1789 đến năm 1801 là giai đoạn Tây Sơn tồn tại với tư cách của những hệ thống chính quyền khác nhau.
d. Từ năm 1527 đến 1801, đất nước có mấy hệ thống chính quyền sau đây:
Chính quyền của nhà Mạc: Trên danh nghĩa chính thống, nhà Mạc truyền nối được 10 người, trong đó có 5 đời đầu thuộc thời tương đối thịnh trị, còn có 5 đời cuối thuộc thời suy tàn:
+Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) :1527 – 1529
+Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) :1530 – 1540
+Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) :1540 – 1546
+Mạc Tuyên Tông (Mạc Phúc Nguyên):1546 – 1561
+Mạc Hậu Hợp :1562 – 1592
+Mạc Toàn :1592 – 1593
+Mạc Kính Chỉ :1592 – 1593 (Lúc này Nhà Mạc có hai vua)
+Mạc Kính Cung :1593 – 1625
+Mạc Kính Khoan :1623 – 1628 (Tự lập làm vua khi Mạc Kính Cung còn sống, một lần nữa họ Mạc lại có hai vua)
+Mạc Kính Vũ :1638 – 1677
Chính quyền Nhà Lê: Tuy chỉ là hư vị, nhưng trên danh nghĩa nhà Lê vẫn còn tiếp tục truyền nối được 16 đời nữa. Cụ thể như sau:
+Lê Trang Tông (Lê Ninh) :1533 – 1548
+Lê Trung Tông (Lê Huyền) :1548 – 1556
+Lê Anh Tông (Lê Duy Bang) :1556 – 1573
+Lê Thế Tông (Lê Duy Đàm) :1573 – 1599
+Lê Kính Tông (Lê Duy Tân) :1599 – 1619
+Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ) :Ở ngôi hai lần (lần 1: 1619 – 1643; lần 2: 1649 – 1662)
+Lê Chân Tông (Lê Duy Hựu) :1643 – 1649
+Lê Huyền Tông (Lê Duy Vũ) :1662 – 1671
+Lê Gia Tông (Lê Duy Cối) :1671 – 1675
+Lê Hi Tông (Lê Duy Hiệp) :1675 – 1705
+Lê Dụ Tông (Lê Duy Đường) :1705 – 1729
+Lê Đế Duy Phường (Lê Duy Phường) :1729 – 1732
+Lê Thuần Tông (Lê Duy Tường) :1732 – 1735
+Lê Ý Tông (Lê Duy Thận) :1735 – 1740
+Lê Hiển Tông (Lê Duy Diệu) :1740 – 1786
+Lê Chiêu Thống (Lê Duy Kỳ) :1786 – 1788
Chính quyền của họ Trịnh ở Đàng Ngoài: Đây là chính quyền song tồn với chính quyền của nhà Lê và là chính quyền có vị trí quan trọng nhất. Xét về danh chính ngôn thuận thì có một số người như Trịnh Bách và Trịnh Bính chưa từng ở ngôi một cách chính thức nhưng xét về thực quyền thì họ đã làm chúa. Vì lẽ đó, nhiều tác phẩm sử học vẫn xếp Trịnh Bách và Trịnh Bính vào danh sách các chúa Trịnh. Theo đó thì danh sách các chúa Trịnh cụ thể như sau:
Trịnh Kiểm :1545 - 1569
Trịnh Cối :1569 – 1570
Trịnh Tùng :1570 – 1623
Trịnh Tráng :1623 - 1657
Trịnh Tạc :1657 - 1682
Trịnh Căn :1682 - 1709
Trịnh Bách :1684 (được phép nắm quyền phủ chúa ngay khi cha là Trịnh Căn còn sống)
Trịnh Bính :1688 - được phép nắm quyền chủ chúa ngay khi ông nội là Trịnh Căn còn sống (Trịnh Bính là cháu đích tôn của Trịnh Căn, cha là Trịnh Vĩnh bị bệnh mất sớm)
Trịnh Cương :1709 - 1729
Trịnh Giang :1729 - 1740
Trịnh Doanh :1740 - 1767
Trịnh Sâm :1767 - 1782
Trịnh Cán :1782 (ở ngôi chúa được một tháng)
Trịnh Khải :1782 - 1786
Trịnh Bồng :1786 (ở ngôi chúa được hai tháng)
Chính quyền của họ Nguyễn ở Đàng Trong:
Nguyễn Hoàng :1558 - 1613
Nguyễn Phúc Nguyên :1613 - 1635
Nguyễn Phúc Lan :1635 - 1648
Nguyễn Phúc Tần :1648 - 1687
Nguyễn Phúc Trăn :1687 - 1691
Nguyễn Phúc Chu :1691 - 1725
Nguyễn Phúc Chú :1725 - 1738
Nguyễn Phúc Khoát :1738 - 1765
Nguyễn Phúc Thuần :1765 - 1777
Nguyễn Phúc Duyên :1777 - lúc này họ Nguyễn có hai chúa
Chính quyền Tây Sơn: Trong thực tế Tây Sơn có đến 3 hệ thống chính quyền khác nhau. Theo đó thì:
Chính quyền của Nguyễn Nhạc:
Nguyễn Nhạc (tức Thái Đức Hoàng Đế hay Trung Ương Hoàng Đế, đóng đô ở Qui Nhơn):1778 – 1793.
Nguyễn Bảo (con Nguyễn Nhạc): 1793- chỉ ở ngôi được một thời gian rất ngắn.
Chính quyền của Nguyễn Huệ:
Nguyễn Huệ (tức Quang Trung Hòang Đế, định đô ở Phú Xuân tức Huế ngày nay. Sau Quang Trung dự kiến dời đô ra Nghệ An - Phượng Hòang Trung Đô - nhưng chưa kịp hoàn thành thì Quang Trung qua đời): 1788-1792
Nguyễn Trác (tức Quang Toản Hoàng Đế ): 1792-1801
Chính quyền của Nguyễn Lữ (tức Đông Định Vương)
Đây là chính quyền yếu nhất trong số các hệ thống chính quyền của Tây Sơn. Nguyễn Lữ cai quản đất Gia Định nhưng lại ít khi ở Gia Định. Ông mất năm 1787 tại Qui Nhơn. Nguyễn Lữ ở ngôi Đông Định Vương chỉ một năm: 1786-1787
a. Đặc điểm nổi bật:
Kết quả nghiên cứu hiện nay cho thấy cách đây khoảng 300.000 năm, loài người đã có mặt trên lãnh thổ nước ta. Dấu tích những chiếc răng vừa có đặc tính của người vừa có đặc tính của vượn (trong đó đặc tính của người là đặc tính trội) phát hiện ở Thẩm Hai, Thẩm Khuyên (nay thuộc tỉnh Lạng Sơn) đã tự nói lên điều đó. Với phát hiện này, các nhà sử học Việt Nam đã cho rằng Việt Nam là một trong những cái nôi của loài người.
Ở nhiều khu vực khác trên thế giới, thời tiền sử thường chỉ tương ứng với thời đồ đá, bước sang thời đồ đồng thì cũng có nghĩa là đã bước sang thời đại có nhà nước. Nhưng kết quả nghiên cứu của giới sử học Việt Nam trong hàng chục năm qua lại cho một kết luận khác hơn, rằng: Thời tiền sử ở Việt Nam không chỉ bao gồm toàn bộ thời đồ đá mà còn băng qua cả toàn bộ thời đồ đồng. Có thể nói, đây là đặc điểm nổi bậc nhất.
b. Các giai đoạn lớn của thời tiền sử:
- Giai đoạn đồ đá:
Mở đầu cách nay khoảng 300.000 năm
Chấm dứt cách nay khoảng 4000 năm
Giai đoạn đồ đá bao hàm bốn chặng lớn:
Đồ đá cũ: với các nền văn hóa tiêu biểu như Thẩm Hai, Thẩm Khuyên, Núi Đọ, Sơn Vi…, mở đầu cách nay khoảng 300.000 năm và chấm dứt cách nay khoảng 11.000 năm.
Đồ đá giữa: với nền văn hóa tiêu biểu nhất là Hòa Bình, có niên đại mở đầu cách nay khoảng 11.000 năm và chấm dứt cách nay khoảng trên 9000 năm.
Đồ đá mới: với các nền văn hoá tiêu biểu như Bắc Sơn, Quỳnh Văn, Bào Tró, Hạ Long…, mở đầu cách nay khoảng trên 9000 năm và chấm dứt cách nay khoảng 4000 năm
Đỉnh cao tột cùng của đồ đá mới: thể hiện tập trung ở văn hoá Phùng Nguyên. Đây cũng là giai đoạn sơ kỳ của giai đoạn đồ đồng ở Việt Nam
- Giai đoạn đồ đồng:
Mở đầu cách nay khoảng 4000 năm.
Bị thay thế dần bởi đồ sắt cách nay khoảng 2500 năm
Giai đoạn đồ đồng ở Việt Nam bao hàm bốn chặng lớn:
Sơ kì: với nền văn hoá tiêu biểu là Phùng Nguyên, niên hiệu mở đầu cách nay khoảng 4000 năm.
Trung kì: với nền văn hoá tiêu biểu là Đồng Đậu, có niên đại mở đầu cách nay khoảng 3300 năm.
Hậu kì: với nền văn hóa tiêu biểu là Gò Mun, có niên đại cách ngày nay khoảng 3100 năm.
Đỉnh cao tột cùng: với nền văn hóa tiêu biểu là Đông Sơn, có niên đại mở đầu cách nay khoảng 2800 năm. Ở khoảng giữa của văn hóa Đông Sơn, đồ sắt bắt đầu xuất hiện. Từ Đông Sơn và trên cơ sở Đông Sơn, sự chuyển hóa của xã hội diễn ra ngày một mạnh mẽ. Nhà nước ra đời.
2. Thời Sơ Sử
a. Khung niên đại:
Về niên đại mở đầu, tất cả các bộ chính sử trước đây đều lấy năm Nhâm Tuất (2879 TCN). Khoa học lịch sử hiện đại đã bác bỏ niên đại mở đầu này. Hiện nay, niên đại mở đầu của thời sơ sử ở Việt Nam được xác định là cách ngày nay khoảng từ 2600 năm đến 2500 năm.
Về niên đại kết thúc, tất cả các bộ chính sử trước đây đều lấy năm 208 TCN. Khoa học lịch sử hiện đại đã bác bỏ niên đại kết thúc này. Hiện nay, niên đại kêt thúc của thời sơ sử được xác định là năm 179 TCN, năm Triệu Đà đánh bại An Dương Vương và xác lập nền đô hộ ở nước ta.
b. Hai giai đoạn lớn của thời sơ sử:
Thời sơ sử (hay thời dựng nước) ở nước ta bao gồm hai giai đoạn lớn:
Giai đoạn Hùng Vương với nước Văn Lang, mở đầu cách đây khoảng từ 2600 năm đến 2500 năm và chấm dứt vào năm 208 TCN (tức là cách nay 2200 năm). Sử cũ có nói đến 18 đời Hùng Vương với những tên gọi rất cụ thể. Tuy nhiên, đó chỉ là lịch sử hóa các chuyện kể dân gian chứ không phải là lịch sử. Văn Lang là một giai đoạn có thật của lịch sử Việt Nam, nhưng sự thật lịch sử về Văn Lang không hoàn toàn như mô tả của sử cũ. Kinh đô của Văn Lang xưa, được xác định là khu vực huyện Phong Châu của tỉnh Phú Thọ ngày nay.
Giai đoạn An Dương Vương với nước Au Lạc, mở đầu năm 208 TCN và kết thúc năm 179 TCN (tức là tồn tại trước sau khoảng 30 năm). Kinh đô của Au Lạc là Cổ Loa (nay thuộc huyện Đông Anh-Hà Nội)
Tuy có hai giai đoạn như đã trình bày ở trên, nhưng do chỗ giai đoạn sau quá ngắn, vả lại, tính chất chung của cả hai giai đoạn cũng không có gì khác biệt lớn, vì thế các nhà sử học vẫn gộp lại mà gọi chung là thời sơ sử, thời dựng nước, hoặc thậm chí cũng có khi gọi đó là thời Hùng Vương.
3. Thời Bắc Thuộc
a. Khung niên đại:
Các bộ chính sử trước đây đều lấy năm 111 TCN (năm nhà Tây Hán lật đổ Nam Việt rồi thay Nam Việt thống trị nước ta) là năm mở đầu. Khoa học lịch sử hiện đại đã bác bỏ niên đại này. Và thay vào đó là năm 179 TCN, năm Triệu Đà (vua Nam Việt) đã đánh bại An Dương Vương, thiết lập nền đô hộ đối với nước ta.
Các bộ chính sử cũng lấy năm 938 (năm Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán) hoặc năm 968 (năm Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong Loạn 12 Sứ quân và lên ngôi Hoàng đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng) là năm kết thúc thời Bắc thuộc. Khoa học lịch sử chọn năm 905 (năm Khúc Thừa Dụ đã khôn khéo thiết lập nền độc lập và tự chủ), vì cho rằng kể từ đây, nền đô hộ của các triều đại Phong kiến Trung Quốc đối với nước ta đã chấm dứt.
b. Các triều đại Phong kiến Trung Quốc đã nối nhau thống trị nước ta trong thời Bắc thuộc (từ 179 TCN đến 905 Sau CN).
NAM VIỆT (họ Triệu): Thành lập năm 206 TCN. Đô hộ nước ta từ năm 179 TCN. Chấm dứt ách đô hộ từ năm 111 TCN. Tổng cộng 68 năm.
TIỀN HÁN (hay Tân Hán – họ Lưu): Thành lập năm 206 TCN, lật đổ Nam Việt rồi thay Nam Việt để đô hộ nước ta từ năm 111 TCN. Chấm dứt ách đô hộ năm 08 sau CN. Tổng cộng 119 năm.
NHÀ TÂN (Vương Mãn): Lật đổ và thay Tiền Hán đô hộ nước ta. Thành lập năm 08, đô hộ nước ta từ năm 08. Chấm dứt ách đô hộ năm 25. Tổng cộng 17 năm.
HẬU HÁN (hay Đông Hán – họ Lưu) dẹp bỏ nhà Tân rồi thay nhà Tân đô hộ nước ta: Thành lập năm 25. Đô hộ nước ta từ năm 25. Chấm dứt ách đô hộ năm 220. Tổng cộng 195 năm.
NHÀ NGÔ (họ Tôn): là một trong 3 nước của thời hỗn chiến Tam Quốc (Ngô, Thục và Ngụy). Đô hộ nước ta từ năm 220. Chấm dứt ách đô hộ năm 280. Tổng cộng 60 năm
NHÀ TẤN (họ Tư Mã): Thống nhất Trung Quốc thay nhà Ngô đô hộ nước ta. Khởi đầu năm 280. Chấm dứt ách đô hộ năm 420. Tổng cộng140 năm
NAM TRIỀU (Tống, Tề, Lương, Trần): Đây là thời loạn lạc của Trung Quốc, sử gọi là thời Nam- Bắc triều. Nam triều với nhiều triều đại khác nhau đã trực tiếp đô hộ nước ta. Khởi đầu năm 420. Chấm dứt ách đô hộ năm 542 (Nam triều còn tồn tại cho đến năm 581, nhưng từ năm 542, ta giành được độc lập nhờ thắng lợi của cuộc khởi nghĩa do Lý Bí lãnh đạo). Tổng cộng 122 năm.
NHÀ TÙY (Họ Dương): Thành lập năm 581. Xâm lược và đô hộ nước ta từ năm 602. Chấm dứt ách đô hộ nước ta từ năm 618. Tổng cộng 16 năm.
NHÀ ĐƯỜNG (Họ Lý): Thành lập năm 618. Thay nhà Tuỳ đô hộ nước ta từ năm 618. Chấm dứt ách đô hộ năm 905. Nhà Đường còn tồn tại đến năm 907, nhưng hai năm sau cùng, chúng không còn đủ sức để đô hộ nước ta. Vả chăng, năm 905, họ Khúc đã khôn khéo thiết lập được chính quyền độc lập và tự chủ. Tổng cộng: 287 năm.
c. Tính chất của thời Bắc thuộc
- Dòng nổi bật thứ nhất của lịch sử thời Bắc thuộc là dòng đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc. Đây là thời đen tối nhất của lịch sử nước nhà trong thiên niên kỷ thứ nhất sau Công nguyên. Quân đô hộ đã quyết tâm xóa bỏ cho bằng được nền độc lập và tự chủ của nhân dân ta, vơ vét và bóc lột nhân dân ta một cách rất thậm tệ. Đây cũng là thời mà những âm mưu đồng hóa nguy hiểm được thực hiện rất ráo riết.
- Dòng nổi bật thứ hai của lịch sử thời Bắc thuộc là dòng đấu tranh liên tục và ngoan cường của nhân dân ta. Hàng loạt những cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ, tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc đô hộ. Điểm lại, chúng ta thấy nổi lên những cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất sau đây:
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng, nổ ra năm 40, chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán (tức Hậu Hán). Hai bà đã dành được chính quyền trong ba năm (40-43). Sử gọi là thời Trưng Nữ Vương
Khởi nghĩa Bà Triệu (tức Triệu Thị Trinh), nổ ra năm 384, chống lại ách thống trị của quân đô hộ nhà Ngô.
Khởi nghĩa Lý Bí (tức Lý Bôn) diễn ra năm 542, chống lại ách đô hộ của nhà Lương (một trong những triều đại của Nam Triều). Đầu năm 544, Lý Bí lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Lý Nam Đế. Đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đặt niên hiệu là Thiên Đức (cũng có sách chép là Đại Đức), trên danh nghĩa nước Vạn Xuân tồn tại đến năm 602.
Khới nghĩa Lý Tự Tiên và Đinh Kiến, nổ ra năm 687, chống lại ách đô hộ của nhà Đường.
Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, nổ ra năm 722, chống lại ách đô hộ của nhà Đường, Mai Thúc Loan lên ngôi hoàng đế, xưng là Mai Hắc Đế.
Khởi nghĩa Phùng Hưng (?- 791), chống lại ách đô hộ của nhà Đường, Phùng Hưng đã dành được chính quyền trong môt thời gian khá dài. Ông qua đời (789), con ông là Phùng An đã tôn cha là Bố Cái Đại Vương.
Khởi nghĩa Dương Thanh, nổ ra năm 819, kéo dài đến năm 820, chống lại ách thống trị của nhà Đường.
Lịch sử thời Bắc thuộc tuy có hai dòng hoàn toàn khác nhau, nhưng điều đáng nói nhất là ở chỗ, cuối cùng dòng đấu tranh ngoan cường của nhân dân ta đã dành thắng lợi.
4. Kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất (905- 1527)
Kỷ nguyên này gồm 5 chặng nối tiếp nhau, tuy có những lúc đất nước ta phải chịu những thử thách rất cam go, nhưng xu hướng chung vẫn là phát triển một cách toàn diện và mạnh mẽ, năm chặng này cụ thể như sau:
a. Xây dựng và khẳng định kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất (từ năm 905 đến 1009).
Đây là chặng đường có nhiều dòng họ nối nhau trị vị đất nước.
HỌ KHÚC (905 – 930). Tuy chưa đặt quốc hiệu và niên hiệu, chưa xưng Đế hay xưng Vương, thậm chí còn tự coi mình là quan lại của Trung Quốc, nhưng họ Khúc đã có công đặt nền tảng căn bản đầu tiên cho kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất của nước nhà. Họ Khúc truyền nối được 3 đời, nắm quyền trong 25 năm.
- Khúc Thừa Dụ (905 – 907)
- Khúc Hạo (907 – 917)
- Khúc Thừa Mỹ (917- 930)
HỌ DƯƠNG (931- 937): Năm 930, quân Nam Hán sang xâm lược nước ta lần nhất, cuộc kháng chiến do Khúc Thừa Mỹ lãnh đạo đã thất bại. Nhưng ngay lập tức một bộ tướng của của họ Khúc là Dương Đình Nghệ đã đánh đuổi được quân Nam Hán ra khõi bờ cõi. Sau thắng lợi Dương Đình Nghệ đã thành lập chính quyền mới do ông đứng đầu. Sự kiện này tỏ rõ, đến đây, độc lập và tự chủ là xu hướng không thể nào đảo ngược. Năm 937 Dương Đình nghệ bị Kiều Công Tiễn (con nuôi và cũng là bộ tướng của ông) giết hại để tranh đoạt quyền hành.
HỌ NGÔ (938-944): năm 937, được tin Công Tiễn giết hại Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền lập tức đưa quân đến hỏi tội. Hốt hoảng, Kiều Công Tiễn đã đi cầu cứu quân Nam Hán. Ngô Quyền liền giết chết Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán ở Bạch Đằng. Sau đó, ông lên ngôi, đóng đô ở Cổ Loa. Sử gọi là thời Ngô Vương. Ông trị vì được sáu năm. Sau ông, con và cháu ông còn tiếp tục nối nhau trị vì thêm một thời gian nữa, nhưng vai trò của họ Ngô thì kể như đã chấm dứt sau cái chết của Ngô Quyền. Với trận thắng lịch sử ở Bạch Đằng năm 938 và với sự nghiệp kiến thiết đất nước sau chiến tranh, Ngô Quyền đã có công khẳng định một cách hiên ngang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất nước nhà.
HỌ ĐINH (968-980): Sau khi Ngô Quyền mất, đất nước lâm vào thời kỳ loạn lạc chưa từng thấy. Các thế lực cát cứ nổi lên khắp nơi. Theo quy luật chung, thế lực nào yếu sẽ bị tiêu diệt sớm, thế lực nào mạnh sẽ tồn tại lâu hơn. Đầu nửa sau thế kỷ thứ 10, chỉ còn lại 12 thế lực mạnh, sử gọi đó là loạn 12 sứ quân. Năm 967, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp tan loạn 12 sứ quân và năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, định đô ở Hoa Lư. Năm 970, ông đặt niên hiệu là Thái Bình. Họ Đinh truyền nối được hai đời:
- Đinh Tiên Hoàng: 968-979
- Đinh Phế Đế (tức Đinh Toàn): 980
Với sự nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân và kiến thiết nước nhà trong những năm trị vì, Đinh Tiên Hoàng là người đã có công hoàn thiện kỷ nguyên độc lập tự chủ và thống nhất của nước nhà. Từ đây, độc lập dân tộc và thống nhất quốc gia trở thành hai mặt bản chất nhất, nổi bật nhất, cũng là quy luật xuyên suốt nhất của lịch sử.
NHÀ TIỀN LÊ (980-1009): Nhà Tiền Lê được lập nên do sự lựa chọn và suy tôn của các quan lại cùng các nhà sư. Bấy giờ, vận nước lâm nguy bởi mưu đồ xâm lăng của nhà Tống mà Đinh Toàn không đủ uy tín, càng không đủ tài năng để điều khiển vận mệnh quốc gia. Là quan Thập đạo Tướng quân, lại đang nắm quyền Phó vương cho Đinh Toàn, Lê Hoàn được suy tôn lên ngôi cũng là điều hợp lý. Nhà Tiền Lê truyền nối được 3 đời, trị vì 29 năm:
- Lê Hoàn (980-1005)
- Lê Trung Tông (3 ngày của tháng 11/1005)
- Lê Long Đĩnh (tức Lê Ngọa Triều: 1005-1009)
Trong thời Tiền Lê, Lê Hoàn là người đã có công rất lớn:
- Đánh tan cuộc xâm lăng của quân Tống vào năm 981.
- Đánh bại sự quấy phá của Chiêm Thành vào năm 982.
- Tiếp tục xây dựng và củng cố kinh đô Hoa Lư, ban hành nhiều chính sách cai trị rất tích cực và tiến bộ.
b. Nước Đại Việt dưới thời Lý (1010-1225)
Triều Lý được thành lập do sự đồng lòng suy tôn của quan lại và các nhà sư cuối thời Tiền Lê, sau khi Lê Long Đĩnh qua đời vào năm 1009.
- Người có công khai sáng triều Lý là Lý Công Uẩn.
- Nhà Lý có mấy cống hiến nổi bật sau đây:
Về chính trị: Thiết lập guồng máy nhà nước của quý tộc họ Lý. Dời đô từ Hoa Lư về Thăng long (1010). Đặt quốc hiệu mới là Đại Việt (1045).
Về quân sự: Đánh bại quân Chiêm ở biên cương phía Nam (1069). Đại phá quân Tống xâm lăng (1077)
Về văn hóa: Tạo điều kiện cho Phật giáo và Đạo giáo phát triển mạnh mẽ.
Mở đường cho nền giáo dục và thi cử Nho học được xác lập và không ngừng đi lên. Đưa các lĩnh vực khác của đời sống văn hóa nước nhà bước vào một giai đoạn hưng thịnh mới.
- Nhà Lý tồn tại trước sau được 215 năm, gồm 9 đời hoàng đế nối nhau trị vì. Cụ thể như sau:
+ Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) :1010-1028
+ Lý Thái Tông (Lý Phật Mã) :1028-1054
+ Lý Thánh Tông (Lý Nhật Tôn) :1054-1072
+Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức) :1072-1127
+Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán) :1128-1138
+Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ) :1138-1175
+Lý Cao Tông (Lý Long Trát) :1175-1210
+Lý Huệ Tông (Lý Hạo Sảm) :1210-1224
+Lý Chiêu Hoàng (Lý Phật Kim - công chúa út của Lý Huệ Tông): 1224-1225
c. Nước Đại Việt thời Trần (1226-1400)
- Nhà Trần được thành lập trên cơ sở lợi dụng hôn nhân để lật đổ nhà Lý vốn đã đổ nát từ hàng chục năm trước đó.
- Hoàng đế khởi đầu của nhà Trần là Trần Thái Tông (tức Trần Cảnh – chồng Lý Chiêu Hoàng).
- Nhà Trần có mấy cống hiến lớn sau đây:
Về chính trị: Tái thiết và củng cố guồng máy nhà nước của quý tộc (một hình thức vốn dĩ đã có từ thời Lý). Lập chế độ hai ngôi: Thượng Hoàng và Hoàng Đế nhằm tránh các nạn tranh giành ngôi báu thường có giữa các hoàng tử.
Về quân sự: Xây dựng các lực lượng vũ trang theo phương châm quân sĩ cốt ở tinh nhuệ chứ không phải cốt ở số đông. Ba lần đại phá quân Nguyên Mông xâm lược (lần 1: 1258; lần 2: 1285; lần 3: 1288)
Về văn hóa: Đưa nền giáo dục và thi cử Nho học tiến đến một giai đoạn phát triển mới, rất mạnh mẽ. Trong khi Phật giáo và Đạo giáo vẫn có cơ hội để tiếp tục khẳng định vị trí của mình. Tạo điều kiện cho tất cả các lĩnh vực khác của đời sống văn hóa đi lên, góp phần quan trọng vào việc để lại cho lịch sử dấu ấn sâu sắc văn hóa Lý - Trần.
- Với 13 đời nối nhau trị vì trong 175 năm, nhà Trần gồm các vị Hoàng đế cụ thể sau đây:
+Trần Thái Tông (Trần Cảnh) :1226 – 1258
+Trần Thánh Tông (Trần Hoảng) :1258 – 1278
+Trần Nhân Tông (Trần Khâm) :1278 – 1293
+Trần Anh Tông (Trần Thuyên) :1293 – 1314
+Trần Minh Tông (Trần Mạnh) :1314 – 1329
+Trần Hiến Tông (Trần Vượng) :1329 – 1341
+Trần Dụ Tông (Trần Hạo) :1341 – 1369
+Dương Nhật Lễ (cướp ngôi) :1369 – 1370
+Trần Nghệ Tông (Trần Phủ) :1370 – 1372
+Trần Duệ Tông (Trần Kính) :1372 – 1377
+Trần Phế Đế (Trần Hiện) :1377 – 1388
+Trần Thuận Tông (Trần Ngung) :1388 – 1398
+Trần Thiếu Đế (Trần An) :1398 – 1400
d. Đất nước những năm đầu thế kỷ XV:
- Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần lập ra nhà Hồ. Thời Hồ có mấy điểm đáng lưu ý sau:
Quốc hiệu mới của ta là Đại Ngu.
Kinh đô mới là Đại Lại (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá ngày nay)
Nhà Hồ truyền được hai đời:
Hồ Quý Ly chỉ ở ngôi một năm (1400)
Hồ Hán Thương (1400 – 1407)
Cuối năm 1406, quân Minh tràn sang xâm lược nước ta, cuộc chiến do nhà Hồ lãnh đạo bị thất bại.
- Từ năm 1407, quân Minh bắt đầu thiết lập nền đô hộ trên toàn cõi nước ta. Thời thuộc Minh tuy không dài nhưng đây cũng là thời đầy bi thương của cả dân tộc.
- Dưới thời Minh, nhân dân ta đã không ngừng nổi dậy đấu tranh dưới nhiều dạng hình thức khác nhau. Dưới đây là những cuộc đấu tranh tiêu biểu:
Khởi nghĩa Trần Ngỗi – Trần Quý Khoáng (1407 – 1413). Cả hai lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa này đều xưng Đế (Trần Ngỗi là Giản Định Đế, Trần Quý Khoáng là Trùng Quang Đế). Sử gọi đây là thời Hậu Trần.
Khởi nghĩa Phạm Ngọc (1419 – 1420).
Khởi nghĩa Lê Ngã (1419 – 1420).
Phong trào Áo đỏ (1407 – 1427).
Tuy nhiên, lớn nhất và giành được thắng lợi vẻ vang nhất vẫn là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi phát động và lãnh đạo (1418 – 1427)
e. Nước Đại Việt thời Lê Sơ (1428 – 1527)
Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc chiến tranh giải phóng, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế. Triều Lê được lập kể từ đó. Trên danh nghĩa triều Lê có lịch sử tri vì lâu nhất, tuy nhiên, không phải lúc nào quyền lực của nhà Lê trên vũ đài chính trị của nước nhà cũng mạnh mẽ như nhau. Căn cứ vào thực trạng này, sử chia triều Lê làm 3 chặng, trong đó chặng đầu tiên gọi là thời Lê Sơ.
Dưới thời Lê, lịch sử có mấy điểm nổi bật sau đây:
Thăng Long được tái lập làm kinh đô.
Quốc hiệu Đại Việt được tiếp tục sử dụng.
Bộ máy nhà nước thời Lê Sơ không phải là bộ máy nhà nước của quý tộc như thời Lý và Trần, ngược lại, đây là bộ máy nhà nước của bá quan văn võ được tuyển chọn trong trăm họ, chủ yếu thông qua con đường thi cử.
Về mặt tư tưởng, thời Lê Sơ là thời Nho giáo chiếm vị trí độc tôn.
Về kinh tế, đây là thời kỳ mà Đại Việt thực sự là một cường quốc trong khu vực.
- Thời Lê Sơ kéo dài 100 năm gồm 11 đời Hoàng đế nối nhau trị vì. Cụ thể là:
+Lê Thái Tổ (Lê Lợi) :1428 – 1433
+Lê Thái Tông (Lê Nguyên Long):1433 – 1442
+Lê Nhân Tông (Lê Bang Cơ) :1442 – 1459
+Lê Nghi Dân (cướp ngôi) :1459 – 1460
+Lê Thánh Tông (Lê Tư Thành) :1460 – 1497
+Lê Hiến Tông (Lê Tranh) :1497 – 1504
+Lê Túc Tông (Lê Thuần) :6 tháng cuối năm 1504
+Lê Uy Mục (Lê Tuấn) :1505 – 1509
+Lê Tương Dực (Lê Oánh) :1510 – 1516
+Lê Chiêu Thống (Lê Y) :1516 – 1522
+Lê Cung Hoàng (Lê Xuân) :1522 – 1527
5. Đất nước trong thời kỳ đổ nát của nền thống nhất quốc gia (1527 – 1801)
Đến đây, độc lập và tự chủ tuy về cơ bản vẫn tiếp tục được giữ vững, nhưng đất nước lại lâm vào cuộc nội chiến triền miên. Nhiều hệ thống chính quyền khác nhau đã đồng thời tồn tại và không ngừng tìm cách thủ tiêu lẫn nhau. Muốn nắm được những nội dung chủ yếu của lịch sử trong giai đoạn này, chúng ta không thể không điểm lại những cục diện chính trị sôi động nhất.
a. Cục diện Nam - Bắc triều hay còn gọi là chiến tranh Lê Mạc (1527 – 1592)
- Năm 1527, Mạc Đăng Dung thay thế ngôi nhà Lê, triều Mạc đóng đô ở Thăng Long (tức là ở phía Bắc) nên sử gọi là Bắc triều.
- Năm 1533, triều Lê được tái lập ở Thanh Hóa (tức ở phía Nam) nên sử gọi là Nam triều. Nam triều tuy danh nghĩa là triều Lê nhưng thực quyền lại nằm trong tay Nguyễn Kim, rồi sau đó là trong tay Trịnh Kiểm và dòng dõi Trịnh Kiểm.
- Từ năm 1533 đến năm 1592, hai bên Nam – Bắc triều đã đánh nhau 38 trận lớn. Kết quả là Nam triều đè bẹp được Bắc triều. Sau năm 1592, tuy họ Mạc vẫn còn tiếp tục hoạt động chống Nam triều thêm một thời gian nữa nhưng về cơ bản vai trò của Bắc triều đến đó coi như đã chấm dứt.
b. Cục diện Đàng Ngoài – Đàng Trong hay còn gọi là thời Trịnh – Nguyễn phân tranh (1558 – 1786)
- Ngay khi cục diện Nam – Bắc triều chưa chấm dứt, thì một cục diện khác, sôi động và quyết liệt hơn đã hình thành ngay trong lòng Nam triều.
- Năm 1558, tướng của Nam triều là Nguyễn Hoàng đã vào làm Trấn thủ xứ Thanh Hóa. Năm 1570, ông lại được kiêm quản xứ Quảng Nam. Cơ đồ của họ Nguyễn bắt đầu hình thành kể từ đó.
- Nguyễn Hoàng đã thực hiện chính sách hai mặt:
Về công khai thì Nguyễn Hoàng vẫn tỏ rõ là người trung thành với nhà Lê, thực hiện đầy đủ các chức phận của một vị quan ở nơi biên ải.
Về bí mật thì Nguyễn Hoàng ra sức tìm cách gầy dựng cơ đồ riêng.
-Đến đời con Nguyễn Hoàng thì chính sách hai mặt này không còn nữa. Hai bên họ Trịnh và họ Nguyễn đã đánh nhau 7 trận lớn.
-Năm 1672, do thấy không thể tiêu diệt được nhau, hai bên đã lấy sông Gianh (Quảng Bình ngày nay) làm giới tuyến để chia cắt lâu dài.
Từ sông Gianh trở ra Bắc gọi là Đàng Ngoài do họ Trịnh nắm quyền cai trị.
Từ sông Gianh trở vào Nam gọi là Đàng Trong, do họ Nguyễn nắm quyền cai quản.
- Cục diện Đàng Ngoài – Đàng Trong chấm dứt năm 1786 bởi cuộc tấn công của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy.
c. Tây Sơn (1771 – 1801)
- Năm 1771 phong trào Tây Sơn bùng nổ. Phong trào này có 3 giai đoạn mang 3 tính chất khác nhau:
Từ năm 1771 đến năm 1784 là giai đoạn Tây Sơn chiến đấu quyết liệt mà mục tiêu tấn công vào toàn bộ cơ đồ của họ Nguyễn ở Đàng Trong.
Từ năm 1784 đến năm 1789 là giai đoạn Tây Sơn đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ khác nhau:
Đẩy mạnh và mở rộng cuộc tấn công vào các tập đoàn phong kiến thống trị ở cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài.
Dũng cảm đảm nhận sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc: Tiêu diệt quân Xiêm ở Đàng Trong (1785) và quân Mãn Thanh ở Đàng Ngoài (1789)
Từ năm 1789 đến năm 1801 là giai đoạn Tây Sơn tồn tại với tư cách của những hệ thống chính quyền khác nhau.
d. Từ năm 1527 đến 1801, đất nước có mấy hệ thống chính quyền sau đây:
Chính quyền của nhà Mạc: Trên danh nghĩa chính thống, nhà Mạc truyền nối được 10 người, trong đó có 5 đời đầu thuộc thời tương đối thịnh trị, còn có 5 đời cuối thuộc thời suy tàn:
+Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) :1527 – 1529
+Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) :1530 – 1540
+Mạc Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) :1540 – 1546
+Mạc Tuyên Tông (Mạc Phúc Nguyên):1546 – 1561
+Mạc Hậu Hợp :1562 – 1592
+Mạc Toàn :1592 – 1593
+Mạc Kính Chỉ :1592 – 1593 (Lúc này Nhà Mạc có hai vua)
+Mạc Kính Cung :1593 – 1625
+Mạc Kính Khoan :1623 – 1628 (Tự lập làm vua khi Mạc Kính Cung còn sống, một lần nữa họ Mạc lại có hai vua)
+Mạc Kính Vũ :1638 – 1677
Chính quyền Nhà Lê: Tuy chỉ là hư vị, nhưng trên danh nghĩa nhà Lê vẫn còn tiếp tục truyền nối được 16 đời nữa. Cụ thể như sau:
+Lê Trang Tông (Lê Ninh) :1533 – 1548
+Lê Trung Tông (Lê Huyền) :1548 – 1556
+Lê Anh Tông (Lê Duy Bang) :1556 – 1573
+Lê Thế Tông (Lê Duy Đàm) :1573 – 1599
+Lê Kính Tông (Lê Duy Tân) :1599 – 1619
+Lê Thần Tông (Lê Duy Kỳ) :Ở ngôi hai lần (lần 1: 1619 – 1643; lần 2: 1649 – 1662)
+Lê Chân Tông (Lê Duy Hựu) :1643 – 1649
+Lê Huyền Tông (Lê Duy Vũ) :1662 – 1671
+Lê Gia Tông (Lê Duy Cối) :1671 – 1675
+Lê Hi Tông (Lê Duy Hiệp) :1675 – 1705
+Lê Dụ Tông (Lê Duy Đường) :1705 – 1729
+Lê Đế Duy Phường (Lê Duy Phường) :1729 – 1732
+Lê Thuần Tông (Lê Duy Tường) :1732 – 1735
+Lê Ý Tông (Lê Duy Thận) :1735 – 1740
+Lê Hiển Tông (Lê Duy Diệu) :1740 – 1786
+Lê Chiêu Thống (Lê Duy Kỳ) :1786 – 1788
Chính quyền của họ Trịnh ở Đàng Ngoài: Đây là chính quyền song tồn với chính quyền của nhà Lê và là chính quyền có vị trí quan trọng nhất. Xét về danh chính ngôn thuận thì có một số người như Trịnh Bách và Trịnh Bính chưa từng ở ngôi một cách chính thức nhưng xét về thực quyền thì họ đã làm chúa. Vì lẽ đó, nhiều tác phẩm sử học vẫn xếp Trịnh Bách và Trịnh Bính vào danh sách các chúa Trịnh. Theo đó thì danh sách các chúa Trịnh cụ thể như sau:
Trịnh Kiểm :1545 - 1569
Trịnh Cối :1569 – 1570
Trịnh Tùng :1570 – 1623
Trịnh Tráng :1623 - 1657
Trịnh Tạc :1657 - 1682
Trịnh Căn :1682 - 1709
Trịnh Bách :1684 (được phép nắm quyền phủ chúa ngay khi cha là Trịnh Căn còn sống)
Trịnh Bính :1688 - được phép nắm quyền chủ chúa ngay khi ông nội là Trịnh Căn còn sống (Trịnh Bính là cháu đích tôn của Trịnh Căn, cha là Trịnh Vĩnh bị bệnh mất sớm)
Trịnh Cương :1709 - 1729
Trịnh Giang :1729 - 1740
Trịnh Doanh :1740 - 1767
Trịnh Sâm :1767 - 1782
Trịnh Cán :1782 (ở ngôi chúa được một tháng)
Trịnh Khải :1782 - 1786
Trịnh Bồng :1786 (ở ngôi chúa được hai tháng)
Chính quyền của họ Nguyễn ở Đàng Trong:
Nguyễn Hoàng :1558 - 1613
Nguyễn Phúc Nguyên :1613 - 1635
Nguyễn Phúc Lan :1635 - 1648
Nguyễn Phúc Tần :1648 - 1687
Nguyễn Phúc Trăn :1687 - 1691
Nguyễn Phúc Chu :1691 - 1725
Nguyễn Phúc Chú :1725 - 1738
Nguyễn Phúc Khoát :1738 - 1765
Nguyễn Phúc Thuần :1765 - 1777
Nguyễn Phúc Duyên :1777 - lúc này họ Nguyễn có hai chúa
Chính quyền Tây Sơn: Trong thực tế Tây Sơn có đến 3 hệ thống chính quyền khác nhau. Theo đó thì:
Chính quyền của Nguyễn Nhạc:
Nguyễn Nhạc (tức Thái Đức Hoàng Đế hay Trung Ương Hoàng Đế, đóng đô ở Qui Nhơn):1778 – 1793.
Nguyễn Bảo (con Nguyễn Nhạc): 1793- chỉ ở ngôi được một thời gian rất ngắn.
Chính quyền của Nguyễn Huệ:
Nguyễn Huệ (tức Quang Trung Hòang Đế, định đô ở Phú Xuân tức Huế ngày nay. Sau Quang Trung dự kiến dời đô ra Nghệ An - Phượng Hòang Trung Đô - nhưng chưa kịp hoàn thành thì Quang Trung qua đời): 1788-1792
Nguyễn Trác (tức Quang Toản Hoàng Đế ): 1792-1801
Chính quyền của Nguyễn Lữ (tức Đông Định Vương)
Đây là chính quyền yếu nhất trong số các hệ thống chính quyền của Tây Sơn. Nguyễn Lữ cai quản đất Gia Định nhưng lại ít khi ở Gia Định. Ông mất năm 1787 tại Qui Nhơn. Nguyễn Lữ ở ngôi Đông Định Vương chỉ một năm: 1786-1787
6. Việt Nam Thời Nguyễn (1802-1945)
Vài nét về Triều Nguyễn:
Triều Nguyễn được dựng lên trên cơ sở đánh bại và tước đoạt những thành quả của phong trào Tây Sơn. Tuy không phãi là con cháu trực hệ nhưng các Hoàng Đế nhà Nguyễn cũng là dòng dõi của các chúa Nguyễn.
Trên danh nghĩa, triều Nguyễn tồn tại trước sau 143 năm nhưng lịch sử triều Nguyễn lại bao hàm hai giai đoạn mang hai tính chất hoàn toàn khác nhau:
Giai đoạn thứ nhất từ 1802 đến 1884 là giai đoạn triều Nguyễn tồn tại chủ yếu với tư cách của một vương triều độc lập. Giai đoạn này thuộc khung lịch sử Trung đại Việt Nam.
Giai đoạn thứ hai từ năm 1884 đến 1945 là giai đoạn triều Nguyễn chỉ tồn tại trong khuôn khổ cho phép của chủ nghĩa thực dân Pháp. Sử thường gọi đây là thời thuộc địa nửa phong kiến. Giai đoạn này thuộc khung lịch sử Cận đại Việt Nam.
-Thời Nguyễn, lịch sử Việt Nam có mấy sự kiện lớn sau đây:
• Lãnh thổ rộng nhất so với tất cả các triều đại trước đó.
• Quốc hiệu mới của nước ta là Việt Nam (kể từ tháng 6/1804).
• Kinh đô mới của nước ta là Huế.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, cuộc chiến đấu chống xâm lăng do triều Nguyễn tổ chức và lãnh đạo đã thất bại. Sau đó, một bộ phận không nhỏ của triều đình nhà Nguyễn đã cam kết hợp tác và làm tay sai cho thực dân Pháp.
Phong trào yêu nước của nhân dân liên tục nổi lên với nhiều hình thức và tính chất phong phú khác nhau. Tuy nhiên, trọng đại hơn cả vẫn là sự kiện chính đảng giai cấp vô sản Việt Nam ra đời năm 1930. Sau 15 năm hoạt động, cuộc cách mạng do những người cộng sản Việt Nam phát động, tổ chức và lãnh đạo đã toàn thắng. Lịch sử Việt Nam hiện đại cũng bắt đầu từ đó.
Tuy vị trí có khác nhau, nhưng trong 143 năm tồn tại, triều Nguyễn có tất cả 13 đời Hoàng đế nối nhau trị vì. Sử thường gọi các Hoàng đế nhà Nguyễn theo niên hiệu (vì mỗi Hoàng đế chỉ đặt có một niên hiệu) chứ không gọi theo miếu hiệu như đối với các hoàng đế các triều đại khác. Cụ thể như sau:
Gia Long (tức Nguyễn Ánh) :1802-1819
Minh Mạng (tức Nguyễn Phước Đảm) :1820-1840
Thiệu Trị (tức Nguyễn Phước Miên Tông) :1841-1848
Tự Đức (tức Nguyễn Phước Hồng Nhậm) :1848-1883
Dục Đức (tức Nguyễn Phước Ưng Chân) :3 ngày của tháng 7/1883
Hiệp Hòa (tức Nguyễn Phước Hồng Dật) :4 tháng cuối của năm 1883
Kiến Phúc (tức Nguyễn Phước Ưng Đăng) :từ cuối năm 1883 đến tháng 4/1884
Hàm Nghi (tức Nguyễn Phước Ưng Lịch) :1884-1888
Đồng Khánh (tức Nguyễn Phước Ưng Xuy) :1885-1888
Khi Hàm Nghi xuất bôn đánh Pháp, Đồng Khánh được đưa lên ngôi. Vì thế trên danh nghĩa thì từ năm 1885-1888, nước ta có hai hoàng đế.
Thành Thái (tức Nguyễn Phước Bửu Lân) :1889-1907
Duy Tân (tức Nguyễn Phước Vĩnh San) :1907-1916
Khải Định (tức Nguyễn Phước Bửu Đảo) :1916-1925
Bảo Đại (tức Nguyễn Phước Vĩnh Thụy) :1925-1945
7.Nước Việt Nam từ 1945 đến nay
Năm 1945 Cách Mạng Tháng 8 thành công. Ngày 2/9/1945, với việc tuyên đọc bản tuyên ngôn độc lập do Bác Hồ khởi thảo, nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa đã khai sinh. Đây là nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhưng vừa giành được chính quyền thì toàn thể nhân dân ta đã lao vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp.
Năm 1954, với chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta đã buộc thực dân Pháp ký vào hiệp định Geneve, công nhận độc lập, chủ quyền của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Từ năm 1954 đến năm 1975, nhân dân cả nước đã dốc lòng chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Ngày 30/4/1975 với đại thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, một kỷ nguyên mới đã mở ra. Từ đây, Việt Nam là một quốc gia thống nhất, hoàn toàn có độc lập và chủ quyền, có vị trí quốc tế ngày một lớn.
Từ năm 1976, quốc hiệu mới của nước ta là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Chân dung các bại tướng Pháp tại chiến trường Đông Dương
Từ 1945 đến 1954, có đến 8 viên chức quân đội cấp cao Pháp đã được đưa sang Đông Dương:
Tướng Jacques Philippe Leclerc
Tướng Jean Valluy
Tướng Roger Blaizot
Tướng Marcel Carpentier
Tướng ean de Lattre de Tassigny
Tướng Raoul Salan
Tướng Henri Eugène Navarre
Tướng Christian Marie Ferdinand De La Croix De Castries
Vài nét về Triều Nguyễn:
Triều Nguyễn được dựng lên trên cơ sở đánh bại và tước đoạt những thành quả của phong trào Tây Sơn. Tuy không phãi là con cháu trực hệ nhưng các Hoàng Đế nhà Nguyễn cũng là dòng dõi của các chúa Nguyễn.
Trên danh nghĩa, triều Nguyễn tồn tại trước sau 143 năm nhưng lịch sử triều Nguyễn lại bao hàm hai giai đoạn mang hai tính chất hoàn toàn khác nhau:
Giai đoạn thứ nhất từ 1802 đến 1884 là giai đoạn triều Nguyễn tồn tại chủ yếu với tư cách của một vương triều độc lập. Giai đoạn này thuộc khung lịch sử Trung đại Việt Nam.
Giai đoạn thứ hai từ năm 1884 đến 1945 là giai đoạn triều Nguyễn chỉ tồn tại trong khuôn khổ cho phép của chủ nghĩa thực dân Pháp. Sử thường gọi đây là thời thuộc địa nửa phong kiến. Giai đoạn này thuộc khung lịch sử Cận đại Việt Nam.
-Thời Nguyễn, lịch sử Việt Nam có mấy sự kiện lớn sau đây:
• Lãnh thổ rộng nhất so với tất cả các triều đại trước đó.
• Quốc hiệu mới của nước ta là Việt Nam (kể từ tháng 6/1804).
• Kinh đô mới của nước ta là Huế.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, cuộc chiến đấu chống xâm lăng do triều Nguyễn tổ chức và lãnh đạo đã thất bại. Sau đó, một bộ phận không nhỏ của triều đình nhà Nguyễn đã cam kết hợp tác và làm tay sai cho thực dân Pháp.
Phong trào yêu nước của nhân dân liên tục nổi lên với nhiều hình thức và tính chất phong phú khác nhau. Tuy nhiên, trọng đại hơn cả vẫn là sự kiện chính đảng giai cấp vô sản Việt Nam ra đời năm 1930. Sau 15 năm hoạt động, cuộc cách mạng do những người cộng sản Việt Nam phát động, tổ chức và lãnh đạo đã toàn thắng. Lịch sử Việt Nam hiện đại cũng bắt đầu từ đó.
Tuy vị trí có khác nhau, nhưng trong 143 năm tồn tại, triều Nguyễn có tất cả 13 đời Hoàng đế nối nhau trị vì. Sử thường gọi các Hoàng đế nhà Nguyễn theo niên hiệu (vì mỗi Hoàng đế chỉ đặt có một niên hiệu) chứ không gọi theo miếu hiệu như đối với các hoàng đế các triều đại khác. Cụ thể như sau:
Gia Long (tức Nguyễn Ánh) :1802-1819
Minh Mạng (tức Nguyễn Phước Đảm) :1820-1840
Thiệu Trị (tức Nguyễn Phước Miên Tông) :1841-1848
Tự Đức (tức Nguyễn Phước Hồng Nhậm) :1848-1883
Dục Đức (tức Nguyễn Phước Ưng Chân) :3 ngày của tháng 7/1883
Hiệp Hòa (tức Nguyễn Phước Hồng Dật) :4 tháng cuối của năm 1883
Kiến Phúc (tức Nguyễn Phước Ưng Đăng) :từ cuối năm 1883 đến tháng 4/1884
Hàm Nghi (tức Nguyễn Phước Ưng Lịch) :1884-1888
Đồng Khánh (tức Nguyễn Phước Ưng Xuy) :1885-1888
Khi Hàm Nghi xuất bôn đánh Pháp, Đồng Khánh được đưa lên ngôi. Vì thế trên danh nghĩa thì từ năm 1885-1888, nước ta có hai hoàng đế.
Thành Thái (tức Nguyễn Phước Bửu Lân) :1889-1907
Duy Tân (tức Nguyễn Phước Vĩnh San) :1907-1916
Khải Định (tức Nguyễn Phước Bửu Đảo) :1916-1925
Bảo Đại (tức Nguyễn Phước Vĩnh Thụy) :1925-1945
7.Nước Việt Nam từ 1945 đến nay
Năm 1945 Cách Mạng Tháng 8 thành công. Ngày 2/9/1945, với việc tuyên đọc bản tuyên ngôn độc lập do Bác Hồ khởi thảo, nước Việt nam Dân Chủ Cộng Hòa đã khai sinh. Đây là nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhưng vừa giành được chính quyền thì toàn thể nhân dân ta đã lao vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp.
Năm 1954, với chiến thắng Điện Biên Phủ, chúng ta đã buộc thực dân Pháp ký vào hiệp định Geneve, công nhận độc lập, chủ quyền của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Từ năm 1954 đến năm 1975, nhân dân cả nước đã dốc lòng chiến đấu chống Mỹ cứu nước. Ngày 30/4/1975 với đại thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, một kỷ nguyên mới đã mở ra. Từ đây, Việt Nam là một quốc gia thống nhất, hoàn toàn có độc lập và chủ quyền, có vị trí quốc tế ngày một lớn.
Từ năm 1976, quốc hiệu mới của nước ta là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
Chân dung các bại tướng Pháp tại chiến trường Đông Dương
Từ 1945 đến 1954, có đến 8 viên chức quân đội cấp cao Pháp đã được đưa sang Đông Dương:
Tướng Jacques Philippe Leclerc
Tướng Jean Valluy
Tướng Roger Blaizot
Tướng Marcel Carpentier
Tướng ean de Lattre de Tassigny
Tướng Raoul Salan
Tướng Henri Eugène Navarre
Tướng Christian Marie Ferdinand De La Croix De Castries