"KỶ LỤC BUỒN" - 9 VUA NHÀ HẬU LÊ BỊ GIẾT ĐAU ĐỚN

Nhà Hậu Lê (1428-1789) chia làm hai thời kỳ là Lê sơ (1428-1527) và Lê Trung Hưng (1533-
1789). Với 27 triều vua và gần 4 thế kỷ tồn tại, đây là triều đại kéo dài nhất trong lịch sử Việt
Nam.
Do tồn tại trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động, mà đây cũng là triều đại nắm giữ “kỷ lục”
về số vua bị giết hại …

1- CÁI CHẾT CAY ĐẮNG CỦA LÊ BANG CƠ

Lê Nhân Tông, vị vua thứ ba của nhà Lê sơ tên thật là Lê Bang Cơ.
Dù chỉ là con trai thứ ba, nhưng ông được vua cha là Lê Thái Tông phong làm Hoàng Thái tử
vào năm 1441, khi mới vài tháng tuổi.
Thái hậu Nguyễn Thị Anh làm Nhiếp chính cho ông từ khi mới lên ngôi báu cho đến khi ông tự
thân chấp chính vào năm 1452.
Lên ngôi lúc còn nhỏ, Lê Nhân Tông tỏ ra là vị Hoàng đế anh minh, biết thương dân, sùng kính
Nho giáo, xem trọng nghề nông và kính cẩn tông miếu. Ông không có thói đam mê tửu sắc, và
biết tôn trọng những người có công đối với Vương triều.
Dưới triều Nhân Tông, nước Đại Việt thái bình thịnh trị, đời sống nhân dân ổn định, bờ cõi được
bảo vệ và mở rộng.
Dù sáng suốt và nhân từ, nhưng vua Nhân Tông vẫn bị anh cả là Lê Nghi Dân oán hận và muốn
đoạt ngôi vì ông chỉ là con thứ. Trong khi đó, Nhân Tông không đề phòng gì vì luôn coi Nghi
Dân là anh ruột.
Một đêm cuối năm 1459, Nghi Dân cùng các thủ hạ đã bắc thang vào cung cấm giết vua Nhân
Tông. Khi đó ông mới 18 tuổi. Cái chết của ông khiến cho quan lại "nuốt hận ngậm đau", và thần dân "như mất cha mất mẹ”.


2- QUẢ BÁO DÀNH CHO LÊ NGHI DÂN

Lê Nghi Dân vốn được lập làm thái tử khi mới 3 tháng tuổi (năm 1440).
Ông bị mất ngôi thái tử vào tay người em Bang Cơ của mình chỉ vì mẹ bị vua thất sủng. Sau khi
giết Bang Cơ năm 1459, Lê Nghi Dân lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiên Hưng.
Do bất mãn, tháng 5/1460, các tể tướng đại thần là Đỗ Bí, Lê Ngang, Lê Thụ, Lê Ê đã bí mật bàn
việc lật đổ vua Thiên Hưng.
Vụ việc đó bị lộ, tất cả những người mưu phản đều bị bắt giết.
Do vua thay đổi nhiều pháp chế của đời trước, dùng những người thân tín của mình vào triều nên
các cựu thần ngày càng không bằng lòng.
Tháng 6/1460, các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt, Lê Lăng, Lê Niệm … lại bàn nhau làm binh
biến.
Sau một buổi chầu, Nguyễn Xí đã dẫn quân vào giữ chặt quân cấm binh, đóng các cửa thành và
giết các bề tôi tin cẩn của vua Thiên Hưng. Hơn 100 người thuộc phe cánh của vua đã mất mạng.
Bản thân Lê Thiên Hưng bị bắt, phế truất làm Lệ Đức hầu và bị thắt cổ chết khi mới 22 tuổi, ở
ngôi được một năm.

3- "VUA QUỶ" LÊ UY MỤC ĐỀN MẠNG

Năm 1505, Lê Uy Mục lên ngôi sau khi vua Lê Túc Tông mất sớm ở tuổi 17. Trong thời gian trị
vì, vị vua này đã bị gọi là “vua quỷ” vì ăn chơi vô độ, ham rượu chè, gái đẹp, tàn bạo giết hại
nhiều người vô tội.
Quyền hành trong triều rơi vào tay họ ngoại của vua.
Điều này làm dấy lên sự phẫn nộ trong quan lại, dân chúng cũng như dòng dõi họ Lê. Giản Tu
Công Lê Oanh (vua Lê Tương Dực sau này) đã được lập làm minh chủ nổi dậy chống lại Uy
Mục.
Tháng 11/1509, Lê Oanh sai Cẩm Giang Vương Lê Sùng ở Tây Đô đưa quân về Đông Kinh (Hà
Nội). Uy Mục có ưu thế hơn, đã bắt giết Lê Sùng và mẹ của Lê Oanh. Sau đó, Lê Oanh vào
chiếm kinh thành bắt được và bức tử Lê Uy Mục.
Hận Lê Uy Mục giết hại gia đình mình, Lê Oanh còn sai người dùng súng lớn, nhét xác Uy Mục
vào miệng súng, cho nổ tan hết hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn tại quê mẹ ở làng Phù Chẩn.
“Quỷ vương” Lê Uy Mục ở ngôi được 4 năm, thọ 21 tuổi.

4- SAU “VUA QUỶ”, ĐẾN LƯỢT “VUA LỢN” LÊ TƯƠNG DỰC

Lê Oanh sinh năm 1495, là cháu nội của vua Lê Thánh Tông.
Dưới thời Lê Hiến Tông, ông được phong làm Giản Tu công.
Sau khi giết Lê Uy Mục, Lê Oanh tự lập mình làm vua, lấy niên hiệu là Hồng Thuận, tức là vua
Tương Dực Đế.
Đi theo vết xe đổ của Lê Uy Mục, Lê Tương Dực chơi bời xa xỉ trụy lạc, bỏ bê việc nước. Dân
chúng oán ghét và khinh bỉ Tương Dực, nên gọi ông là "vua lợn". Triều chính trở nên hết sức rối ren, bên ngoài khắp nơi loạn lạc.
Dù tình hình căng thẳng nhưng Lê Tương Dực không đoái hoài.
Nguyên Quận công Trịnh Duy Sản là người có công trạng, nhiều lần can ngăn không được mà
còn bị vua cho người đánh bằng trượng.
Sản bất mãn, mưu với thái sư Lê Quảng Độ và Trình Trí Sâm lập vua khác.
Mượn tiếng đi đánh giặc, mờ sáng một ngày tháng 5/1516 Trịnh Duy Sản đem binh vào cửa Bắc
Thần giết “vua lợn”.
Lê Tương Dực ở ngôi được 7 năm, hưởng thọ 21 tuổi.


5- CUỘC ĐỜI BẢO TỐ VÀ CÁI CHẾT CỦA LÊ CHIÊU TÔNG

Lê Chiêu Tông (1506-1526), có tên húy là Lê Y, chắt của vua Lê Thánh Tông, là vị vua thứ 10
của nhà Lê sơ.
Lúc mới 11 tuổi, ông được đại thần Trịnh Duy Sản và Lê Quảng Độ lập làm vua khi dấy quân lật
đổ Lê Tương Dực.
Trong thời gian trị vì của Lê Chiêu Tông, triều đình bị thao túng bởi Trần Chân, con nuôi của
Trịnh Duy Sản. Vua sợ uy quyền của Trần Chân lấn át mình, nên sai người dụ Chân vào triều rồi
giết Chân cùng các thủ hạ thân tín.
Nhóm thủ hạ còn lại của Trần Chân phục thù, mang quân từ Sơn Tây đánh vào kinh thành, khiến
vua phải tháo chạy.
Với tài thao lược của Mạc Đăng Dung, quân triều đình đánh bại những kẻ nổi loạn. Dung lần
lượt được phong làm Minh quận công, rồi thái phó, quyền thế dần dần át cả vua.
Lê Chiêu Tông sợ bị Mạc Đăng Dung khống chế, bí mật bàn cùng các nội thần lập kế giết Mạc
Đăng Dung. Nhưng đánh không lại, nội thần và Chiêu Tông phải bỏ kinh thành trốn chạy. Sau
đó Mạc Đăng Dung tuyên bố phế truất ông và lập em ông là Lê Xuân lên ngôi (Lê Cung Hoàng).
Như vậy, trong nước lúc này có 2 vua là Chiêu Tông và Cung Hoàng.
Các tướng thân cận của Chiêu Tông đem quân giúp vua, khôi phục lại được thanh thế và đẩy lùi
quân của Mạc Đăng Dung.
Nhưng do bản tánh luôn nghi ngờ những người đả giúp mình nên Chiêu Tông đả đẩy nhiều
tướng bỏ theo phe của Mạc Đăng Dung.
Từ đó quân của Mặc Đăng Dung làm chủ tình hình.
Ngày 28/10/1525, trong một trận đánh Mạc Đăng Dung bắt được Chiêu Tông mang về Thăng
Long giam lỏng.
Đến tháng 12/1526, ông bị Mạc Đăng Dung sai người giết chết, thọ 24 tuổi, ở ngôi được 6 năm.


6- LÊ CUNG HOÀNG CHẾT TRONG TỦI NHỤC


Vua Lê Cung Hoàng (1507 – 1427) có tên húy là Lê Xuân là vị vua cuối cùng của Thời Lê sơ.
Ông là em ruột Lê Chiêu Tông, chắt của Lê Thánh Tông, được Mạc Đăng Dung lập lên làm vua
để giữ danh chính, khi Chiêu Tông trốn thoát vào năm 1522.
Sau khi Chiêu Tông bị giết, vai trò lá chắn của Cung Hoàng không còn.
Đã đến lúc để Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê.
Ngày 15/6/1527, Mạc Đăng Dung đem quân vào kinh, bắt vua nhường ngôi. Triều thần lúc đó
hầu hết đã là người của Đăng Dung hoặc theo Đăng Dung, tự khởi thảo chiếu nhường ngôi cho
vua.
Mạc Đăng Dung xưng hoàng đế, tức là Mạc Thái Tổ, lập ra nhà Mạc, lấy niên hiệu là Minh Đức.
Lê Cung Hoàng bị giáng xuống làm Cung Vương rồi bị giam cùng với Hoàng thái hậu ở cung
Tây Nội.
Vài tháng sau, Mạc Đăng Dung ép mẹ con Cung Hoàng phải tự tử.
Lê Cung Hoàng ở ngôi được 5 năm, thọ 21 tuổi.

7- CUỘC NỔI DẬY KHÔNG THÀNH CỦA LÊ ANH TÔNG

Lê Anh Tông (1532 - 1573), tên thật là Lê Duy Bang, là vị vua thứ ba của thời Lê trung hưng.
Trong thời kỳ này, quyền hành đả về tay các chúa Trịnh, họ Lê không thực quyền.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh giành quyền bính. Trịnh
Cối thất bại phải sang hàng nhà Mạc.
Năm 1572, thấy quyền hành Trịnh Tùng lớn quá, Lê Cập Đệ bàn mưu với Lê Anh Tông mưu trừ
khử Tùng để lấy lại quyền bính cho nhà họ Lê.
Kế hoạch bị lộ, Cập Đệ bị đao phủ của Trịnh Tùng giết chết.
Lê Anh Tông bỏ hành cung chạy trốn cùng 4 người con trai lớn ra Nghệ An.
Năm 1573, Trịnh Tùng đưa con trai thứ năm còn nhỏ tuổi của ông là Lê Duy Đàm lên ngôi vua
và sai quân về Nghệ An bắt Anh Tông.
Vua bị đưa về triều giám sát ngày đêm và bị họ Trịnh bức chết.
Khi đó ông 42 tuổi, ở ngôi được 17 năm.

8- BI KỊCH CỦA ANH TÔNG LẶP LẠI VỚI CHÁU NỘI KÍNH TÔNG

Lê Kính Tông (1588-1619), có tên húy là Lê Duy Tân, là vị vua thứ 5 của thời Lê trung hưng.
Ông lên ngôi khi mới 11 tuổi.
Vào lúc này, vua nhà Lê đã trở thành bù nhìn, mọi quyền hành thực sự nằm trong tay chúa Trịnh.
Ông nội của Kính Tông là Lê Anh Tông (Duy Bang) đã bị Trịnh Tùng sát hại vì vua dám chống
lại chúa Trịnh Tùng.
Từ năm 1600, Trịnh Tùng nhờ sự tiếp tay của Tàu đã cơ bản dẹp được nhà Mạc ở miền Bắc.
Mâu thuẫn mới lại nổi lên giữa họ Trịnh và họ Nguyễn khi Nguyễn Hoàng sợ bị giết bỏ trốn vào
vùng Thuận - Quảng.
Nhân cơ hội này, con cháu nhà họ Mạc lại nổi lên.
Trong tình hình đó, vào năm 1619, Lê Kính Tông cùng Trịnh Xuân mưu giết chết Trịnh Tùng để
giành lại quyền làm chủ đất nước cho họ Lê.
Nhưng kế hoạch thất bại, Trịnh Xuân bị tống vào ngục, còn nhà vua bị Trịnh Tùng buộc thắt cổ
chết.
Lê Kính Tông thọ 31 tuổi, ở ngôi 20 năm.

9- LÊ DUY PHƯỜNG SỐNG OAN KHUẤT, CHẾT CAY ĐẮNG

Lê Duy Phường (1709-1735) là vị vua thứ 12 của thời Lê trung hưng.
Là cháu ngoại chúa Trịnh Cương (người nắm thực quyền khi đó), ông đã có nhiều hậu thuẫn để
lên ngôi vua năm 1729, khi 21 tuổi, với niên hiệu là Vĩnh Khánh.
Tháng 10/1729, Trịnh Cương mất, con là Trịnh Giang lên nối ngôi.
Cũng như các đời trước, việc triều chính do Trịnh Giang định đoạt, vua Vĩnh Khánh không có
thực quyền, muốn làm gì cũng phải được phép của họ Trịnh. Trịnh Giang còn muốn thay đổi
ngôi vua, do Trịnh Cương đã sắp đặt từ trước, để ra oai với thiên hạ, là họ Trịnh mình mới có
quyền thiên tử.
Năm 1732, Trịnh Giang ép vua Vĩnh Khánh ra ở cung riêng.
Tháng 8 năm đó, Trịnh Giang vu cho vua Vĩnh Khánh tư thông với mẹ Trịnh Giang, vợ Trịnh
Cương, rồi phế bỏ.
Trịnh Giang lập con trưởng của Dụ Tông (anh cả của Duy Phường) là Lê Duy Tường lên ngôi,
tức Lê Thuần Tông.
Tháng 4/1735, Lê Thuần Tông mất, Trịnh Giang lập em Duy Phường là Lê Duy Thận làm vua,
tức là Lê Ý Tông.
Lúc này Lê Duy Phường bị Trịnh Giang đuổi ra, cho ở một ngôi nhà ở bên ngoài thành. Tháng
9/1735, Trịnh Giang sai người thắt cổ giết chết ông.
Lê Duy Phường ở ngôi 3 năm , thọ 27 tuổi.

(Hoàng Phương tổng hợp)