THÁP PONAGAR
Và điểm
tham quan buổi chiều của chúng ta đó là Tháp Bà Ponagar. Tháp Po Yan Ino Nagar
Kauthara – Tháp Nữ thần xứ sở Kauthara (bà mẹ của thị tộc Kau) hay tháp bà,
tháp chàm Nha Trang, tọa lạc trên một độ cao 10 – 12m so với mặt nước biển,
trên một khoảng đất bằng phẳng rộng rãi của đình Cù Lao, một núi đá hoa cương
nhỏ từ phía Bắc dòng sông Cái, ngay đầu cầu Xóm Bóng, bên phải quốc lộ 1 Bắc –
Nam. Cửa biển này xưa kia gọi là cửa biển Cù Huân của sông Cù, bên trái có một
xóm dân chài gọi là Xóm Bóng, bởi ngày xưa nơi đây là nơi đào tạo các trinh nữ
múa bóng vào những ngày lễ tế trên tháp bà, nay thuộc địa phận phường Vĩnh
Phước, thành phố Nha Trang.
Đứng trên
quần thể của kiến trúc này phóng tầm mặt bao quanh bốn bề, du khách không khỏi
ngạc nhiên đến sững sờ và tấm tắc khen ngợi sự lựa chọn vị trí xây dựng tháp
của cổ nhân
ngày trước. Giữa một vùng rừng rú âm u, lau sậy um tùm, hoang thú xuất
hiện nhởn nhơ đây đó, các tác giả của công trình đã lựa chọn một vị trí “độc
nhất vô nhị” để xây dựng.
Cho đến nay dù đã trải qua trên ngàn năm quần thể Tháp bà vẫn phù hợp và
hài hòa với những yêu cầu của kiến trúc nghệ thuật hiện đại, sự cân đối của nó
với môi trường xung quanh, một sự ăn ý tuyệt vời của công trình với núi non,
sông biển và với các công trình kiến trúc mới được xây dựng từ đầu thế kỷ XX.
Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam, vị trí các “bà” quan trọng hơn hẳn
vị trí các ông. Ngoài Bắc có Mẫu Liễu Hạnh, bà Chúa Thượng Ngàn, bà Thủy, bà
Chúa Kho, các Phật Bà Tứ Pháp ... Miền Trung có bà Thiên Y A Na mà điện thờ
chính là tháp bà Ponagar của người Chăm. Bà có nhiều dị bản : Thượng thư Phan
Thanh Giản (1796 – 1867) đã ghi lại một bản khắc trên tấm bia dựng 1858 phía
sau tháp: Từ ngàn xưa, một ngày xa xôi lắm, vì lịch sử không có ghi chép rõ là
ngày nào, tại làng Đại An, thuộc tỉnh Phú Khánh ngày nay, Thiên Y Thánh Mẫu
giáng trần tại núi Chúa. Núi nằm kế cận núi Cù Huynh, phía Đông giáp biển cả.
Vùng này hoa nở bốn mùa, trái ngọt quanh năm, đúng là một cảnh thiên tiên nơi
hạ giới.
Giữa cảnh thanh bình an lạc ấy, có cặp vợ chồng không con, sống hiu
quạnh trong một mái tranh tại ven rừng. Vợ chồng ông lão chuyên trồng dưa (5)
để sống độ nhật. Một việc hai ông bà rất để ý, khi dưa chín, thường hay bị mất
trộm, vợ chồng ông lão quyết tâm rình bắt cho bằng được đứa trộm dưa. Một đêm,
dưới ánh trăng thanh sau nhiều ngày rình rập, vợ chồng ông lão bắt quả tang một
cô bé đã hái cầm trên tay một quả dưa. Bị cật vấn, cô bé cho biết mình sống côi
cút lạc loài tại vùng này. Thấy diện mạo dễ thương, thay vì phải trừng phạt, vợ
chồng ông lão đem về nuôi dưỡng, nâng niu như con ruội. Cô bé ấy chính là
"Thiện Y tiên nữ hóa thân."
Một ngày, làng Đại An bị nước lụt. Cảnh vật quanh vùng bao phủ mầu nước
trắng xóa. Thiện Y buồn bã ngồi nhìn cảnh rừng núi ảm đạm, ngậm ngùi nhớ cảnh
cũ người xưa trên tiên giới. Để khuây khỏa sự nhớ nhung, Thiên Y đã hái hoa quả
và lượm đá làm một cảnh giả sơn (non bộ) để ngắm. Bực mình vì nạn hồng thủy,
ông lão sinh ra cau có, lại thấy Thiện
Y
cứ suốt ngày đùa nghịch hồn
nhiên, nên quở mắng nặng lời. Hối hận vì đã làm buồn lòng dưỡng phụ và một phút
thiếu suy nghĩ, Thiện Y biến mình vào một khúc trầm đang bị nước cuốn để trôi
giạt đến một nơi vô định. Sau nhiều ngày lênh đênh trên mặt biển, khúc trầm
trôi táp vào bờ Bắc Hải thuộc địa phận Trung Quốc. Dân chúng tại bờ biển thấy
khúc gỗ trầm, mới xúm nhau lại khiêng về dùng, nhưng có đông đảo mấy không tài
nào xê dịch nổi khúc gỗ đừng nói đến chuyện khiêng đi. Cho là một chuyện kỳ lạ,
dân chúng trong làng xôn xao bàn tán và tin này thấp đến tận Kinh Đô. Thời kỳ
ấy, Hoàng đế Trung Quốc chỉ sinh có một Đông Cung Thái Tử diện mạo khôi ngô,
tuổi đã hai mươi vẫn chưa chọn được người bạn trăm năm vừa ý. Chàng chu du khắp
nước, nhưng không có một thiếu nữ nào có diễm phúc được chàng để mắt đến. Tin
về khúc gỗ lạ lùng đến tai thái tử, cho là một sự lạ, chàng xin phép mẹ cha đến
tận nơi quan sát và khi đến nơi, chàng đã chứng kiến trước mắt cảnh người đông
nghẹt quanh khúc gỗ nhưng dù cố gắng đến bao nhiêu cũng không thể lay chuyển
nổi.
Tức giận, Thái Tử ra lệnh cho mọi người đứng ra xa để chàng xem khúc gỗ
thế nào mà có sức nặng dị thường như thế.
Kỳ diệu và lạ lùng thay, khi chàng luồn hai tay qua khúc trầm để nhấc
lên, thì chàng lại đưa được bổng lên cao một cách rất nhẹ nhàng. Thái Tử cho
rằng khúc trầm có nhiều phép lạ nên chàng ra lệnh chở về Kinh rồi chọn một nơi
thanh khiết trong Hoàng Cung để cất giữ tử tế. Có một đêm, trằn trọc mãi không
ngủ được, Thái Tử định đến thư phòng để xem sách. Bước nhẹ qua vườn Thượng
Uyển, chàng rất kinh ngạc thấy một bóng giai nhân cực kỳ diễm lệ đang rảo bước
giữa muôn hoa dưới ánh trăng khi mờ khi tỏ. Nghe tiếng động, bóng ấy vội vàng
chạy thoát về phía Hoàng Cung rồi biến mất. Việc xảy ra quá đột ngột và mau lẹ,
Thái Tử rất đỗi ngạc nhiên vì nơi đây không có cung tần sao có bóng giai nhân
thấp thoáng?
Sau nhiều đêm cố tâm rình rập, một đêm nọ Thái Tử chụp được giai nhân
trước khi nàng sắp thu hình biến vào khúc trầm.
Thiện Y kể lại tiểu sử của mình cho Thái Tử nghe và yêu cầu được sự che
chở của chàng. Khi gặp Thiện Y cho là duyên tiền định, chàng say nhan sắc yêu
kiều của Thiện Y nên đánh bạo xin yết kiến vua cha tâu lại sự tình, xin vua cha
chấp thuận cuộc hôn nhân với Thiện Y Tiên Nữ. Vì thương con, nhà vua cho một
thầy tướng số giỏi nhất Trung Quốc để xem thuận lợi hay bất thuận về cuộc hôn
nhân của con mình và Thiện Y. Sau khi đoán số, thầy tướng tiết lộ cho vua biết
Thiện Y vốn là tiên nữ giáng trần và Thái Tử được kết hôn với nàng là một điềm
lành cho Trung Quốc.
Thế là hôn lễ được cử hành theo nghi lễ của hoàng
gia. Toàn thể dân chúng Trung Quốc hân hoan ăn mừng khi tiếp nhận được tin lành
này. Sau mấy năm phối hợp với Thái Tử, Thiên Y sinh hạ được một con trai tên là
Tri và một gái tên là Quý.
Đang sống trong cuộc đời nhung lụa trong cung vàng điện ngọc, nhưng một
ngày, Thiên Y chạnh lòng nhớ đến cố hương, làng Đại An nơi dưỡng phụ và dưỡng
mẫu đang sống khô héo trong những ngày tàn. Vì quá nhớ thương, Thiên Y quyết
trở về quê cũ nên cùng hai con biến mình vào khúc trầm vượt ra biển và nương
theo đường cũ trở về làng Đại Ai.
Về đến nơi thì than ôi! cha mẹ già đã khuất bóng. Lòng hiếu thảo dâng
trào, Thiên Y sửa sang lại mái tranh đã sụp đổ và dựng một ngôi chùa, để ngày
ngày hương khói dưỡng phụ và dưỡng mẫu.
Từ khi
trở lại làng cũ Đại An, Thiên Y giúp ích rất nhiều dân chúng trong vùng được
mọi người quý mến. Thiên Y tự tay tạc lấy tượng của mình rồi đem đặt lên chót
núi và trong một buổi sang tinh sương, Thiên Y lặng lẽ rời bỏ dân chúng thân
yêu làng Đại An cùng hai con trở về Tiên Giới. Từ ngày vợ cùng hai con bỗng
nhiên bỏ đi bặt vô âm tín. Thái Tử vô cùng buồn bã. Ít lâu sau, vua cha băng
hà, Thái tử phải lên ngôi trị vì Trung Quốc. Sắp đặt xong việc triều chính. Tân
Quân mới nghĩ đến việc đi tìm vợ con. Nhớ lại những giờ phút hạnh phúc sống bên
nhau, Thiên Y thường nhắc nhở đến quê hương của nàng, làng Đại An thuộc nước
thiên Thành, nơi phong cảnh xinh tươi, hoa trái bốn mùa nở rộ, ông ra lệnh
chuẩn bị một đội chiến thuyền hùng hậu hộ tống, vượt trùng dương, nhắm hướng
Chiêm Thành. Khi chiến thuyền của Trung Quốc đến hải phận Chiêm Thành nhà vua
sai sứ giả vào gặp vua Chiêm Thành bày ý định đi tìm vợ con của mình hiện cư
ngụ tại làng Đại An. Nhưng vô ích vì Thiên Y và hai con không còn ở tại làng
Đại An nữa. Vua Trung Quốc bị thất vọng và tình
trong ba ngày dân chúng Chiêm
Thành phải đem nộp Thiên Y và hai con của nàng. Quá hạn,
ông sẽ ra lệnh cho quân Trung
Quốc đổ bộ tàn sát khắp vùng Đại An. Phẫn uất vì thái độ đe
dọa của Trung Quốc, toàn thể dân
Chiêm ráo riết chuẩn bị một cuộc chống xâm lăng, quyết
liều chết, không cho quân Tàu đổ
bộ. Ngày thứ ba đã đến. Bầu trời ảm đạm thê lương bao
phủ quang cảnh vùng Đại An như
báo hiệu một cuộc tàn sát rùng rợn sắp khai diễn. Ngự trên
thuyền rồng, vua Trung Quốc vì
nóng lòng muống gặp mặt vợ con và căm giận quan quân
Chiêm ngạo mạn, ông ra lệnh cho
toàn quân đổ bộ. Thế là, giữa tiếng trống giục quân và
tiếng hò hét vang dậy náo động
một vùng biển cả, đoàn chiến thuyền Trung Quốc tua tủa khí
giới, hùng hổ lướt vào bờ. Vừa
lúc quân đội hai bên sắp lâm chiến thình lình Thiên Y cùng
hai con hiện xuống, đứng trên
đỉnh núi Chúa, cố gắng ngăn cản cuộc binh đao. Nhưng một
khi ba quân đã say máu chiến đấu
thì những lời kêu gọi hòa bình của Thiên Y dù có tha thiết
đến mấy, cũng chẳng ai quan tâm
đến. Để tránh một cuộc chiến tranh tàn khốc. Bằng phép
màu, Thiên Y làm sóng gió nổi ba
đào, cố tình gây trở ngại cho đoàn chiến thuyền Trung
Quốc không đổ bộ được. Không ngờ
sức mạnh của sóng to gió lớn làm chiến thuyền va
chạm phải nhau nên đã có một số
lớn vỡ tan, chìm sâu dưới đáy biển. Buồn vì nỗi vợ con
thất lạc chưa tìm ra được, lại
dồn dập thâm cảnh thiên tai gây thất bại, vua Trung Quốc gieo
mình xuống giòng nước, mang theo
mối hận tình không bao giờ tan xuống tuyền đài.
Bàng hoàng vì đã trót lỡ tay gây
thảm họa cho chồng, Thiên Y chỉ còn đứng trơ như hòn đá,
nghẹn ngào nhìn theo đoàn chiến
thuyền xô xát còn xót lại đang hoảng hốt tìm đường tẩu
thoát. Trước cái chết của vua
cha, đứa con trai duy nhất của Thiên Y buồn rầu lặng lẽ ra đi
đến một vùng rừng núi âm u rồi
sau quy tịch tại đó. Phần Thiên Y và người con gái lưu lại
Đại An và mỗi buổi chiều tà, dân
chúng làng Đại An thường thấy bóng nàng và con đứng
trên chót núi cao, ngó ra biển để
mong tìm lại hình bóng người xưa. Nhưng mặt bề phẳng
lặng chỉ còn lưu lại những cột
buồm và mảnh thuyền bị đắm. Một thời gian sau, Thiên Y và
con gái đều quy thiên tại nơi ấy.
Hiện nay, du khách có dịp đi ngang qua cầu Xóm Bóng để
viếng Tháp Bà, sẽ thấy giữa giòng
sông lô nhô nhiều khối đá tưởng tượng như những đỉnh
cột buồm và mũi thuyền. Trên
những khối đá, có khắc nhiều chữ Chàm, và gần đấy, có một
ngôi Chùa nhỏ, hương khói quanh năm.
Đó là Hòn Chữ, nơi vị Thiên Tử Trung Quốc và ba
quân bị trận cuồng phong của
Thiên Y, đã vùi mình dưới bể sâu. Những cột buồm và mũi
thuyền còn nhô trên mặt biển lâu
ngày biến thành đá lưu lại di tích đến ngày nay.
Từ ngày Thiên Y và con quy thiên thì ngoài Hòn Yến thường xảy ra nhiều
phép lạ. Dân chúng trong vùng thành tâm cầu khẩn đều được ứng nghiệm. Để tỏ
lòng sùng bái Thiên Y đã có công cứu nước (nhưng có biết đâu Nàng ôm hận suốt
đời vì đã vô tình giết hại chồng nàng), Chiêm Vương cho xây cất đền thờ và cử
người phụng sự khói hương. Tương truyền rằng ngày xưa, vào dịp ngày vía của
Thiên Y mỗi năm, cây cối trong vườn quanh Tháp Bà đều sinh trái ngọt. Dân chúng
khắp nơi đổ về hành hương rất đông đảo. Cả đến cầm thú trong vùng cũng qui tụ
xung quanh Tháp dường như triều bái vị linh thần. Việt sử chép: Khi vua Gia
Long (1802-1820) bắt đều lên ngôi đã phong tặng Thiên Y tước hiệu: "Hồng
Nhơn Phổ Tế Linh. Ưng Thương Đẳng Thần" (nghĩa là một vị thần cao cả, xá
tội, ban ơn huyền bí linh diệu và được mọi người tôn trọng). Nhà vua cho mộ 3
người trong dân vùng Cù Lao để
làm thủ từ, ngày đến quét tước khói hương trong đền. Làng Cù Lao nay vẫn
còn, dân cư trú mật, càng ngày càng phát đạt ở cửa biển sông Cái trước mặt điện
Poh Nagar. Huyền thoại trên chỉ là việc sưu tập những kỷ niệm tưởng tượng về
thần thoại đạo Bà La Môn, chung quanh nữ thần UMA, thêm vào đó, việc xâm nhập
của chiến thuyền Mã Lai năm 774. Đến khi người Việt Nam đến, thiện nam tín nữ
mộ đạo, với óc tưởng tượng của người phương Bắc, tạo những mẩu chuyện tiên cách
thấm nhuần của đạo Lào.Tháp Bà được xây trên một ngọn đồi phía tây bắc thành
phố Nha Trang, cách thị xã 2 kilomét sát quốc lộ 1 ngày xưa là đền thờ của
người Chàm, nơi thành kính tôn nghiêm mà dân Chàm trong vùng Phú Khánh phải quy
tụ về đông đủ trong những ngày lễ ngày nay là nơi sùng bái, luôn luôn phảng
phất một vẻ huyền bí linh thiêng, thiện nam tín nữ (không phân biệt người Việt
hay người Chàm) các nơi trong ngày rằm và mùng một, tuôn đến hành hương, mang
theo lễ vật đèn nhang để cúng vái Thiên Y Thánh Mẫu cũng gọi là "Đức bà
Thiên Y A Na."
Kiến Trúc của Tháp Ponagar:
Tháp Bà gồm 4 Tháp khác nhau và
xây dựng tại Thế kỷ VII đến Thế kỷ XII.
Cũng như tất cả các Tháp Chàm khác còn tồn tại trên
đất nước ta, Tháp Bà Nha Trang được xây cất theo lối kiến trúc cổ xưa của nền
văn minh Chàm. Bốn tháp đều được xây bằng gạch nung, không có vôi ở giữa, người
Chàm chỉ phết một lớp "dầu rái" tức là "dầu lồng"
(Diptérocarpus Chrispulaus L.) do một loại cây thân to và rất cao, hiện
nay, những loại cây này vẫn còn trước mặt Phối Dầu, cách thị xã Nha Trang 20
kilomét. Khi xếp gạch nền, dầu rái được phết lên, (có khi họ dùng cả mật đường
thay dầu rái), người Chàm chất củi thật nhiều trong và ngoài tháp và đốt lửa
cho đến khi gạch dính liền với nhau mới thôi, thế mà qua hơn nghìn năm, cái
Tháp ấy vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
Tháp chính tức là Đền Poh Nagar tiếng Chàm "Poh Nagar có nghĩa là
Bà Chúa một xứ" xứ này là xứ Kaulhara, xưa kia của người Chàm, nằm về
phương Bắc, cao 23 mét và lớn nhất được xây cất vào thế kỷ IX (năm 817 sau công
nguyên), do ông Pangha một vị thượng thư của vua Harivarman I: Nơi đây ngày xưa
là chánh điện của Thánh Trị Malada, Jenagrâti Pangro lại cho dựng một bức tượng
Bhagavati, nữ thần của xứ Kauthara (Phú Khánh) toàn bằng đá.
Trên cửa vào Tháp, có bức tường chạm thần Civa (1) rất tinh vi, thần có
bốn tay chân, chân phải đạp lên đầu con thú Nandin vừa nhảy múa ginta hai nhạc
công đang thổi sáo "sanarai."
Trong tháp là một phòng lớn hình chuông úp, thành tường cao chót vót đến
tận nóc, chỉ có một lối cửa vào duy nhất. Ở ba phía, du khách chú ý đến 3 vòm
tiếp nhận phẩm vật của người hành hương. Chính giữa điện thời, không khí lờ mờ
đục vì thiếu ánh sáng hoặc do những làn khói luôn luôn tỏa từ các đỉnh trầm, du
khách sẽ thấy bàn thờ bằng đá cẩm thạch, trên đó có tượng nữ thần Kauthara. Qua
dáng vẻ của Poh Nagar Thánh Mẫu, chúng ta có thể hình dung được thần Bhagavati
(Thần ban phước), một trong những biến dạng của thần Umâ tức là Cakti của thần
Civa hoặc nói cách khác "biến thể nữ dạng" của thần Civa.
Giữa khói hương nghi ngút, với vẻ mỹ lệ của đồ nữ trang lộng lẫy, tượng
đá. Thiên Y Thánh Mẫu Kauthara, đội mũ hình hoa sen đang xòe nở, óng ánh những
hạt trân châu, xung quanh
có gắn lông công rực rỡ như xà cừ. Nhìn tổng quát, du khách phải nhận
rằng tất cả những vẻ đẹp ấy là cuộc thi thố tài năng và lòng tin tưởng mãnh
liệt của dân tộc Chàm.
Thánh mẫu ngồi xếp bằng tròn, có tất cả 10 cánh tay (2). Hai cánh tay
trên duỗi thẳng, bàn tay đặt trên đầu gối. Lòng bàn tay ngửa lên trời như đang
ban bố một vật gì, dáng điệu từ bi và thanh thản.
Tám tay phụ cầm những vật tượng trưng như: đoản đao, dĩa có cán, mũi
tên, ngà voi, cái dùi trống, vỏ mũi giáo và cái ná.
Thánh nữ mặc "xà rông," đội mũ "mukata," tựa lưng
trên một cái dựa khắc hồi văn tua tủa, giống miệng con quái vật.
Sử chép rằng năm 917, Thiên Hoàng Indravaraman III sai đúc một "kim
tượng" (3) (mukhalinga) cho Bhagavati.
Năm 965,
Java Indravarman I cho dựng một tượng Umâ, nữ dạng của thần Civa mà ngày nay du
khách còn thấy để thay cho Kim tượng.
Tháp Trung Ương cũng gọi là Điện chánh được xây hồi thế kỷ XII, nơi Tháp
đã bị hủy hoại do sự xâm lăng của người Mã Lai năm 774 và đã được trùng tu năm
784 do vua Satya Varman.
Tháp phía Nam xây dưới thời Vua Hari Varman I (thế kỷ IX) cũng như Tháp
Tẩy Bảo và Tháp phía Tây (nay chỉ còn vết tích).
Ngày nay, phía sau tháp, du khách thấy nhiều đống gạch còn lại của những
tháp cũ đã điêu tàn và một tấm bia lớn bằng chữ Hán do (4) Thượng thư bộ lệ
triều vua Tự Đức phụng soạn, ngày 20 tháng 5, Tự Đức năm thứ 9 (1856) bia dô
ông Nguyễn Quýnh, Thông chánh phi sứ điều lãnh Khánh hòa bố chánh dựng.
Tháp
Ponagar được xây dựng từ cuối thế kỷ 8 dưới vương triều Panduranga và được
tu bổ vào thế kỷ 12, gồm 6 tháp
(2 tháp thờ ông và bà Thiên Y A Na; 2 tháp thờ ông Tiều
cha mẹ nuôi của Thiên Y A Na, 2
tháp thờ 2 người con của Thiên Y A Na) nhưng hiện nay
còn 4 tháp, lớn nhất là tháp bà
Ponagar cao 22,48m, nền cao 1m, có khám thờ cao 10,8m bên
trong có bàn thờ có một Yoni và
tượng nữ thần. Tượng bà Ponagar đầu tiên làm bằng vàng
nhưng bị người Campuchia lấy mất,
sau đó tạc tượng bằng đá, nhưng đến năm 1954 đầu
tượng bị mất cắp phải tái tạo
bằng đất nung. Tới đây chúng ta có 2 lối vào thăm tháp, lối đi
thẳng con đường du khách thường
đi nhưng đó không phải là con đường chính thức mà các
giáo sĩ Bà La Môn ngày xưa vẫn
đi. Ngày xưa người ta vào bằng lối qua “Nhà Dài” đi lên
những bậc cấp rất dốc để vào
tháp. Bậc cấp rất dốc vì có dụng ý. Tháp là nơi thần linh ngự
trị. Đi bậc cấp dốc nguy hiểm như
vậy con người khi đi lên phải cúi mặt nhìn vào chân, khi
đi xuống không thể xoay bàn tọa
vào các thần, lên hay xuống gì cũng khỏi phạm tội bất kính.
Hơn nữa, dân tộc Chăm dưới ảnh
hưởng văn hóa Ấn Độ đặt nặng sự phân biệt giai cấp.
Những khu vực đền tháp không mở
rộng cửa như chùa, miếu người Việt mà có thể chỉ dành
cho các tăng lữ, quý tộc.
+ Nhà Dài (hay Mandapa) là một kiến trúc gồm nhiều cột gạch hình tám cạnh
rất lớn, đường kính 1m, cao 3m, đứng chơi vơi... tất cả có 10 cột lớn và 14 cột
nhỏ, chữ Mandapa do các nhà khảo cổ đọc trên các tấm bia Chăm được giải thích
là một ngôi nhà nơi các tín đồ chuẩn bị lễ vật trước khi vào tháp hành lễ, trên
đầu các cột gạch có những lỗ mộng và cũng được giải thích là dấu vết của một
mái ngói nay đã sụp đổ. Ông Quách Tấn (trong xứ trầm hương) thì nói là thời
Chiêm Thành, người kê ván vào những lỗ mộng này làm một sân khấu lộ thiên để vũ
nữ ca múa “Thần trong tháp trông ra, nhân dân đứng dưới trông lên, đôi bên
trông đều rõ”
+ Tháp chính : tháp lớn nhất đẹp và điển hình nhất của quần thể kiến trúc
này, cao 23m, niên đại khoảng thế kỷ 11, kiến trúc kiểu tháp Chăm cổ điển, cửa
quay về hướng Đông, với các tầng mái giống nhau, thu nhỏ dần như một búp thông
khổng lồ. Qua bao nhiêu thế kỷ bị thời gian bào mòn, tinh mắt vẫn còn nhận ra
trên mái có vài hình thiên thần Apsara, hình ngỗng, hình voi... Trên trán cửa
có bức phù điêu tạc một nữ thần có bốn tay, chỉ mặc một chiếc váy nhỏ, ngực rất
lớn, một chân đạp lên bò thần, thân hình uốn éo theo điệu vũ Tandava. Điệu vũ
này lấy nhịp từ sự vận hành của vũ trụ, 2 bên 2 nhạc công, người thổi sáo,
người thổi kèn Saranai cũng lắc lư không kém. Bức phù điêu này mô tả sống động
điệu múa Chiêm Thành hằng bao năm trước vẫn diễn ra ở khu tháp này. Khi người
Việt đến tiếp thu luôn điệu múa hấp dẫn này gọi là múa bóng – múa vào ngày vía
bà. Ngày nay không còn bóng chỉ còn lại cây cầu Xóm Bóng làm dấu vết dưới chân
Tháp Bà. Trong tháp thờ tượng Bà được tạo bằng đá đen bóng khoảng năm 965,1
tuyệt phẩm của nghệ thuật Chiêm Thành... Tượng Nữ thần có 12 tay, 2 tay để trên
đùi bình thường còn các tay kia nhỏ hơn cầm những linh vật như kiếm, cung
tên... riêng cái đầu bị mất. Bệ tượng là cái Yoni có đường rãnh để thoát nước
khi làm lễ tắm tượng, 2 pho tượng đặt 2 bên vách là tượng cô Trí, cậu Quý 2 người
con của bà (những tượng này mới làm thêm sau này).
+ Tháp giữa : có niên đại sớm hơn khoảng thế kỷ X và cũng bị hư hại nhiều
hơn, bên trong tháp thờ Linga được tạo hình khá thành công mọc lên từ giữa
Yoni, phần đế là một vòng những “bầu vú”, mô típ trang trí rất thông dụng của
điêu khắc Chiêm Thành, rồi Linga tròn trĩnh ló ra từ 1 vòng những “cánh hoa
sen”, hình rất đời thường, cũng rất thanh cao.
+ Tháp Nam : nhỏ và hư hại nặng, mái nằm ngang kiểu hình yên ngựa, trong
tháp thờ bộ Linga và Yoni.
+ Tháp Tây Bắc : nằm khuất phía sau, nhỏ bé nhưng đáng chú ý là khá nguyên
vẹn và 2 tầng. Tầngtrên đỉnh không phải hình tháp mà dạng một ngôi nhà mái dài,
phảng phất giống ngôi nhà sàn Tây Nguyên hay ngôi nhà sàn chạm trên trống đồng
Đông Sơn. Kiểu mái dài, cong gọi là mái hình thuyền, rất quen thuộc với các dân
tộc hải đảo Đông Nam Á. Ở tầng dưới có hình chạm trên gạch, còn thấy rõ hình
chạm sư tử ở mặt Bắc còn ở mặt Tây là tấm phù điêu người đàn bà ngồi trên mình
voi. Vào đầu thế kỷ XX, khi tu bổ người Pháp đã đào được ở đây một kho những đồ
thờ cúng bằng vàng, bạc.
+ Biểu
tượng Linga – Vị thần tối cao
khí”. Trong 3 vị thần tối cao
quyền năng vô biên Brahma (thần sáng tạo), Vishnu (thần bảo
tồn) và Siva (thần hủy diệt) thì
Siva là vị thần được tôn kính nhất trong tín ngưỡng Chăm
Siva là thần của hủy diệt, của
cái chết để rồi mở đường cho sáng tạo cho sự sống. Siva xuất
hiện ở cõi trần dưới dạng cái
Linga đầy sức sống, Linga là cái nguyên dương có nguồn gốc
rất cổ xưa từ thời nông nghiệp sơ
khai, thời của tín ngưỡng phồn thực thời con người vô
cùng sung sướng thấy mọi sinh sôi
nảy nở. Ở tháp bà cũng như ở tháp Chăm khác, Linga
mọc lên từ 1 cái Yoni hình vuông
có một đường rãnh thoát nước, tượng trưng cho cái nguyên
âm.
Người ta kể rằng : Bộ Linga – Yoni này xưa kia rất linh thiêng. Nếu đôi
vợ chồng nào muốn có con hay muốn sinh con theo ý mình thì đến đây cầu tự. Họ
mang theo hương hoa và các đồ tế lễ đến bày biện trên bệ thờ của tháp trung
tâm, lấy nước chuyên dùng trong giếng được đào ngay trong khuôn viên quần thể
tháp, rửa sạch bộ Linga – Yoni. Sau đó lấy chứng 1 lít nước đổ đều lên bộ Linga
– Yoni, nước chảy vào các kho rãnh, vào các ngóc ngách của 2 vật âm – dương này
rồi chảy ra một rãnh dẫn, người ta lấy toàn bộ nước đó. Sau khi cúng và cầu
nguyện thật thành tâm xin ân huệ của Siva, đôi vợ chồng sẻ chia nhau uống hết
lượng nước này, ra về họ sẽ được toại nguyện.
+ Brahmar là đấng sáng tạo, tạo dựng vũ trụ ở trên hết muôn loài “là đại
tổ cha chung của muôn vật” (kinh Yatur – Veda) về hình tượng Brahmar có bốn đầu
nhìn về bốn phương biểu hiện ý nghĩa quán triệt khắp vũ trụ, có bốn tay thường
cầm 4 pho kinh Veda, hoặc có khi nắm kinh Veda trong tay thứ nhất, tay thứ hai
cây trượng, tay thứ ba cầm cây cung và bình nước tay còn lại. Brahmar thường
cỡi con thiên nga (Hamsa), tượng trưng cho trí thức. Da đỏ hồng tượng trưng cho
nguyên lý sáng tạo trong thiên nhiên.
+ Siva được mệnh danh là thần hủy diệt, hiện thân như một người có nước da
trắng tượng trưng cho sự thuần túy của tất cả các màu sắc, ba mặt tượng trưng
cho mặt trời mặt trăng và ngọn lửa thế gian : “nhìn thấu quá khứ, hiện tại và
tương lai”. “Sông Hoàng Hà trên đầu” có tất cả các phương tiện để giải thoát
thế gian, miếng da hổ tượng trưng cho sự chết ngự hoàn toàn thiên hiên. Bốn
cánh tay tượng trưng cho 4 phương biểu hiện quyền năng thống trị : một tay cầm
chĩa ba – sự sáng tạo, bảo tồn và hủy diệt, một tay cầm rìu – sức mạnh tuyệt
đối, một tay ra hiệu xua đuổi sự sợ hãi và tay còn lại ban phước lành, bởi vì
Siva còn đồng nghĩa với sự tốt lành không thể hiểu đơn giản là vị thần chỉ có
nhiệm vụ hủy diệt. Môn phái thờ thần Siva thường tôn thờ Siva lưỡng tính – Hình
tượng Linga (dương vật) đặt trên Yoni (âm vật) đó chính là hình ảnh của đấng
sáng tạo, Ngài tự phân làm hai nửa, một âm và một dương, âm dương giao hòa tạo
thành vũ trụ. Siva là vị thần cổ nhất và có uy tín nhất trong Ấn Độ giáo. Người
Chăm ở Việt Nam theo trường phái thờ thần Siva.
+ Vishnu vị
thần đứng giữa thần sáng tạo Brahmar và vị thần hủy diệt Siva – Thần bảo hộ
Vishnu luôn sẵn sàng giáng trần để che chở và cứu giúp chúng sinh với sứ
mạng cao cả, Vishnu được tôn thờ với tất cả tấm lòng yêu mến, thần được mệnh
danh là “Thánh của các Thánh”, “đạo”, “chân lý”. Hình ảnh hóa thân của Vishnu
rất nhiều và hoàn toàn biệt dị, hình ảnh thông thường nhất là Vishnu nằm nghỉ
mình trên mình xà thần Shesha (di tích), bồng
– tượng trưng cho ngũ hành, đĩa sáng như mặt trời – tượng trưng cho thần
trí, cây cung – vũ trụ vận hành và cây chùy – trí thức nguyên thủy.
Quần thể tháp Bà Ponagar Nha Trang là thánh đường quốc gia của vương
quốc Chămpa, được tu bổ và xây dựng rải rác qua nhiều thời kỳ, suốt từ thế kỷ
VIII đến thế kỷ XII. Hiện nay các tháp được trùng tu, tôn tạo lớn, tái hiện lại
khu tháp bằng những vật liệu chuyên dùng, nhưng phần nào đó mất đi vẻ thẩm mỹ
mang tính lịch sử của một công trình kiến trúc cổ xưa. Khu tháp Bà là khu di
tích lịch sử đầu tiên ở Khánh Hòa được Nhà nước xếp hạng cấp bằng “di tích lịch
sử quốc gia” và được bảo vệ bằng pháp luật hiện hành.
HÒN CHỒNG
Điểm tham quan kế tiếp của chúng ta là Hòn Chồng. Thắng cảnh Hòn Chồng
rất độc đáo nằm ngay trên địa phận của Thành phố Nha Trang. Xe chúng ta sẽ theo
con đường vào trường Đại Học Thủy Sản qua nhà nghỉ của Liên Đoàn Lao Động Khánh
Hòa.
Hòn Chồng là một bán đảo xinh xắn tròn trịa, hơi trần trụi, song rất nổi
tiếng, bởi đó là một quần thể các khối đá hoa cương lớn nhỏ, đa hình, đa dạng
xếp chồng lên nhau hoặc chen chúc, hoặc chênh vênh tưởng chừng như được bàn tay
tạo hóa xếp đặt. Chúng chia làm 2 nhóm: nhóm đá phía Bắc nửa chìm nửa nổi
thường được gọi là Hòn Chồng, nhóm nhỏ hơn nằm ở chân đồi phía đông gọi là Hòn
Vợ.
Về cấu trúc địa chất, đó chỉ là phần xuất lộ đá hoa cương gốc, phần rìa
của một phức hệ đá xâm nhập có tên là Đèo Cả, tạo thành cuối Cainozoi chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của các tác nhân, quá trình phong hóa và bào mòn của biển (ánh
nắng mặt trời, nhiệt độ, độ ẩm, không khí, nước mưa, sóng và gió biển...) đã bị
nứt ra và vỡ thành khối theo các khe nứt nguyên sinh và thứ sinh, biến chất và
vỡ vụn phần mềm vữa bị vữa trôi. Những khối đá tảng với độ bền cao hơn thì trơ
ra được sóng biển bào mòn thành tròn trịa đứng vững trước thiên nhiên và biển
cả bao la dữ dội mà đối với chúng ta “lành ít, dữ nhiều” với đủ mọi hình dạng
và kích thước, cũng như thế đứng, thế nằm. Đây không phải là loại đá lăn từ
trên núi như truyền thuyết.
Đến với
Hòn Chồng quý khách sẽ nhận thấy thật thích thú vì như đang đứng trước một trò
chơi thiên nhiên kỳ lạ. Khối đá vuông vức này cứ như được ném xuống từ trên
trời, bị kẹp chặt giữa 2 khối đá khác, vô hình tạo nên một chiếc cổng đá tự như
một cổng thành cổ xưa làm thành một lối đi rộng rãi cho du khách lên xuống nhóm
đá Hòn Chồng. Những tảng đá to lớn cồng kềnh kia trớ trêu thay lại được xếp một
cách chênh vênh và mạo hiểm trên những phiến đá nhỏ hơn nhiều lần, khiến cho
quý khách nếu ai yếu bóng vía sẽ không dám lại gần. Và kia nữa trên đỉnh núi
cao nhất của Hòn Chồng đứng chênh vênh một mình là khối đá khổng lồ, bạn sẽ
thấy in lồ lộ một dấu ấn bàn tay khổng lồ, có đủ cả 5 ngón, in rất sâu vào mặt
đông của khối đá. Bàn tay này làm ta liên tưởng đến một quá khứ xa xăm của Trái
đất, khi mà trái đất này còn tồn tại những sinh vật khổng lồ.
thơm cỏ lạ, phong cảnh hữu tình,
các Tiên của trời cũng thường kéo xuống để kiếm thú vui
tiêu khiển và thường tắm mát ở
Suối Tiên. Các Tiên Ông thì giỡ cờ tiên, xếp những bàn cờ
vẽ sẵn trên những phiến đá vuông
vức phẳng lì. Các Tiên Bà, Tiên Cô vứt bỏ xiêm áo trên bờ
nhào xuống suối tiên thích thú
vùng vẫy, đùa cợt làm âm vang cả một vùng. Một chàng
khổng lồ cũng từ xa đến trên
đường tìm thú vui, điều lạ thì vô tình lọt vào động tiên trần này.
Kinh ngạc trước cảnh “ngàn năm
chỉ thấy một lần” này, chàng khổng lồ say sưa ngắm nhìn,
vô tình bị trượt chân vấp ngã,
vội vàng bám vào những mô đá bên sườn núi. Sườn đá không
chịu nổi sức mạnh của chàng khổng
lồ, lở và đổ ào ào xuống, văng xa tận cửa biển tạo nên
Hòn Chồng ngày nay. Khối đá lúc
chàng bíu vào còn in hằng cả bàn tay, đá tung lên trời,
hòn sau đứng kẹt giữa 2 hòn trước
mới tạo nên “cổng thành cổ” ấy và cũng chính vì vậy mà
có những tảng đá xếp lớp nằm
chênh vênh trên những tảng đá nhỏ, hay được đặt nghiêng
như cái bẫy đá chẳng biết lúc nào
mà sụp xuống.
Còn có một truyền thuyết nữa : một chiếc thuyền của đôi vợ chồng ngư dân
trẻ bị sóng to, gió lớn đánh trôi dạt vào cửa biển này. Vốn trước kia còn là
những vách đá, vỡ tan tành, sóng cuốn trôi người vợ ra xa, người chồng vội lao
theo kéo vào. Song cứ mỗi lần kéo vào gần được bờ, sóng lại tung bọt trắng xóa,
nổi cao hàng chục mét đánh bật người vợ trở lại như quyết chí cướp đi một sinh
linh cho biển cả. Lần cuối cùng, người chồng một tay dìu được vợ, một tay bám
vào vách đá.
Nhưng đáng thương thay, vách đá
vốn chênh vênh muốn đổ nay thêm sức nặng từ bàn tay
người chồng nên đổ ào xuống biển,
nhấn chìm luôn cả đôi vợ chồng bất hạnh nọ. Người chết
song vẫn in đậm dấu ấn thủy chung
của bàn tay người chồng còn hằn trên đá giữ mãi với
thời gian. Nhìn ra xa một chút du
khách sẽ thấy những hòn đảo nhỏ nhấp nhô, nửa chìm nửa
nổi, người ta bảo đó là cánh buồm
của đôi vợ chồng thương tâm nọ.
Đứng trên Hòn Chồng, nhìn về phía Bắc, du khách sẽ thấy ngay trước mặt
là một dãy núi chạy dọc theo hướng Đông – Tây, với nhiều đỉnh khác nhau, đó là
núi Cô Tiên. Gọi như vậy vì đường viền của các đỉnh núi tạo nên một hình tượng
người con gái nằm ngửa mặt lên trời, tóc xỏa dài tới chấm nước biển Đông, một
chân co cao, một chân duỗi dài về hướng Tây. Mái tóc, vầng trán, khuôn mặt bầu
bĩnh, lồng ngực thanh xuân nhô cao đầy sức sống, đầu gối co cao, tròn lẵng, một
tư thế nằm bất động trầm tư... thật là một kiệt tác của tạo hóa khiến cho du
khách cảm thấy thú vị, cảm xúc trìu mến, lưu luyến.
CHÙA LONG SƠN:
Ai về viếng cảnh Khánh Hoà
Long Sơn nên ghé tháp Bà đừng
quên
Kim than Phật tổ nhớ lên
Nhìn ông Phật trắng ngồi trên
lưng trời
phố Nha Trang. Lúc xe của chúng
ta đi vào thành phố Nha Trang ngày hôm qua , hướng dẫn
đã chỉ cho du khách thấy nơi tọa
lạc Loang Sơn Tự và tượng Kim Thân Phật Tổ màu
trắngta5i đường 23 tháng 10 dưới
chân hòn Trại Thủy . ở Nha Trang có trên dưới 20 chùa
nhưng LST là chùa có quy mô lớn
nhất và nằm ở vị trí thuận tiện cho du khách và phật tử
đến chime bái. mời quý khách
xuống xe tập trung trong sân chùa để hướng dẫn đưa quý
khách vào tham quan.
Chùa được khai sơn năm 1889 với tên gọi ban đầu là “Đằng Long Tự”, vị sổ
khai sơn chùa là đức hòa thượng Ngộ Trí , tên thật là Nguyễn Văn Tám Nghi người
ở Phú Yên. Ban đầu chùa chỉ là một ngôi nhà tranh vách đất dựng trên Hòn Trại
Thủy địa điểm như quý khách thấy hiện nay.
Hòa
Thượng Ngộ Trí đi tu từ nhỏ , đại bi đại đức được các tín đồ sung kính và đi
theo rất đông. Ông còn là một thầy lang chuyên bốc thuốc chữa bệnh cho dân, có
nghề mộc và nghề chạm trổ. Cùng với các tín đồ ông dựng lên một ngôi chùa một
căn hai trái (tức Đông Liêu và Tây Liêu) đủ rộng cho 20 – 50 phật tử làm lễ
cùng lúc, lợp ngói âm dương và đổi tên chùa từ Đằ Long Tự thành LST, chính tay
hòa thượng làm một cái mõ hình cá chép, bảng hiệu LST – Duy Tân giáp dần cho
chùa và tạc ba pho tượng (Tam Thánh): Thích Ca, Phổ Hiền, Đại Thê Trí (Văn
thù). Hoa thượng viên tịch cách đây hơn sáu mươi năm tín đồ cho xây tháp thờ
tạc long vị khai sơn chùa tại hậu tổ chùa ở phía Tây Nam cách chùa 1000m, chùa
được nhận sắc phong “Sắc Tứ Long Sơn Tự”.
Năm 1940 Nha Trang bắt đầu được mở rộng với quy mô một thị xã, vẻ hoang
dã, u tịch của Hòn Trại Thủy dần dần bị biến mất dưới ánh đèn của những dãy phố
mới đươc xây cất. Dân di cư vào Nha Trang ngày càng đông chủ yếu là các tín đồ
đạo Phật . Chính vì vậy LST được xây dựng lại bằng kiến trúc và vật liệu mới
như: xi măng, cốt thép và gạch. vẫn lợp ngói âm dương và mang đầy đủ dáng dấp
vẻ đẹp điển hình của một ngôi chùa kiể Á Đông. Chính điện được mở nhiều lần đủ
cho hang trăm tín đồ làm lễ cùng lúc. Chùa có đủ tiền đường, hậu sành, nhà
tăng, phòng khách, nhà bếp…
Trong quá trình xây dựng chùa không thể không kể đến công sức đóng góp
của các cụ Trần Đăng Khoa, Tôn Thất Quyền, lúc đó cụ Quyền và cụ Khoa là Hội
Trưởng và Hội Phó Hội Phật Giáo Thống Nhất tỉnh Khánh Hoà. Cũng như hoàng thân
Xuphanuvong là kỷ sư công chánh lúc bấy giờ nguyên là chủ tịch nước Cộng Hòa
Dân Chủ Nhân Dân Lào, cụ Khoa về sau là phó chủ tịch quốc hội nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa.
Cùng lúc với việc đại trùng tu, một tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng
nặng 700kg cao 1m6 đã được đúc, cho đến nay đó là bức tượng chính và quý nhất
LST được đặt tại vị trí quan trọng nhất điện thờ, sau bức tượng là chiếc gương
điện luôn tỏa sang ngày đêm tượng trưng cho hào quang của Phật.
Năm 1963 Thích Ca Phật Đài (TCPĐ) với tượng Phật Thích Ca được xây dựng
trên đỉnh Hòn Trại Thủy cao 39m so với mực nước biển, bằng xi măng cốt thép, do
kỹ sư Phúc Điền phụ trách cùng với sự đóng góp của trường Bồ Đè và hang nước
mắm Liên Thành cùng với
đàn áp Phật Giáo của chính quyền
Ngô Đình Diệm của Hội Phật Giáo Miền Trung, dưới
chân đế của TCPĐ là hình ảnh các
vị tăng, ni đã tự thiêu như là một hình tượng cuối cùng để
chống lại chế độ đàn áp Phật giáo
của chính quyền ngô, một triệu bao xi măng đã được sử
dụng để xây dựng công trình kiến
trúc này. Tượng quay mặt về hướng Đông cao 18,5m, tòa
sen hình bát giác cao 7m, than
tượng cao 11,5m, rộng 6m, từ đỉnh tượng đến sân trước của
chùa độ cao chênh lệch đến 50m,
du khách sẽ leo lên lên 150 bậc thang để lên thăm khu Kim
Thân Phật Tổ. ngôi chùa hiện nay
là kết quả của đợt trùng tu năm 1971, nhìn chung chùa vẫn
tọa lạc tại vị trí củ, kiến trúc
cơ bàn của chùa vẫn không thay đổi song tiền sảnh được mở
rộng gấp nhiều lầnd9u3 chổ cho
500 người làm lễ. Phối cảnh trước chùa và xung quanh hầu
như bị thay đổi hoàn toàn, hiện
nay LST là trụ sở của Hội Phật Giáo Miền Trung, Hội Phật
Giáo Tỉnh Khánh Hòa, là nơi tuyên
truyền, cổ động và truyền bá Phật Giáo, đào tạo các tăng
lữ. Sau mỗi kỳ đại trùng tu, sinh
hoạt và truyền bá đạo Phật ở Khánh Hòa lại càng phồn thịnh
thêm, đạo Phật ăn sâu vào gốc rễ
của mỗi gia đình người dân Nha Trang, có đến 70% dân số
Nha Trang là tín đồ Đạo Phật.
Quý khách
đến Nha Trang không thễ không viếng thăm LST bởi lẽ đây không chỉ là
chùa trung tâm mà còn là chính
đường đạo Phật ở Khánh Hòa mà vì đây còn là điểm cao
nhất , một thắng cảnh của thành
phố biển. tuy nằm ngay bên cạnh QL1A nhưng trước chùa
vẫn giữ được vẻ huyền bí cao siêu
bởi những hang bồ đề cổ thụ tỏa bóng mát sum suê,
những vườn hoa cây cảnh, những
vườn cây ăn trái được tạo dáng sơn thủy hữu tình, hướng
dẫn sẽ dành 40 phút để quý khách
vào viếng chùa sau đó đoàn chúng ta sẽ di chuyển đến
CHỢ ĐẦM
Chợ Đầm nằm ngay trung tâm thành
phố Nha Trang là một công trình kiến trúc đẹp, lớn và độc đáo. Đây là trung tâm
thương mại ngày đêm sầm uất, chợ nằm trên một cái đầm cũ rộng 7 mẫu Tây, ăn
thông ra với cửa sông Cái (sông Nha Trang) dưới cầu Hà Ra. Vì vậy chợ mới có
tên là chợ Đầm.
Năm 1961, Ty Kiến Thiết Khánh Hòa thiết lập đồ án đại cương về quy hoạch
và xây dựng chợ Đầm mới do kiến trúc sư Lê Kim Anh thiết kế, trong đó có dự án
lấp nửa đầm, xây trên đó một khu chợ tròn, kinh phí dự tính lúc đó là 22 triệu
đồng. Đến 1964 kiến trúc sư Lê Quý Phong lại lập một đề án khác, trong đó thiết
kế một ngôi chợ tròn mái xếp có nhánh hình vòng cung. Đồ án này là cơ sở căn
bản cho ngôi chợ ngày nay. Hai đồ án chưa kịp thực hiện thì đêm 16/08/1968, một
trận hỏa hoạn lớn khủng khiếp xảy ra, thiêu hủy 126 ngôi nhà ở đường Nguyễn
Thái Học nên việc xây dựng khu chung cư và khu chợ hết sức bức thiết với tổng
kinh phí cho dự án lên đến 621.800.000 đồng.
22/12/1969 được coi là ngày đặt viên đá đầu tiên khởi công xây dựng khu
Đầm trên cơ sở đồ án của kiến trúc sư Lê Quý Phong và các kiến trúc sư Hồ
Thăng, Võ Đình Diệp, Nguyễn Xuân Phương đã thiết kế khu chợ Đầm ngày nay với
một số đặc điểm : chợ tròn, mái xếp
Đoàn thiết kế 2 chung cư “A” và “B” do kiến trúc sư Trần Tiêu Chuẩn thực
hiện, gồm những hạng mục sau : mỗi cao ốc bao gồm : 1 tầng trệt và 3 tầng lầu.
Tầng trệt cao 1,6m dành cho buôn bán và cửa hàng, tầng lầu cao 2,8m làm các căn
hộ chung cư, 2 cao ốc xoay mặt cong về phía đường, 2 phía sau cao ốc đối diện
nhau, ở giữa có một khoảng trống rộng 6m để đón gió. Công trình được khởi công
xây dựng vào 21/11/1969 và hoàn tất ngày 14/10/1972. Toàn bộ khu chợ Đầm hoàn
tất và đưa vào sử dụng 1974. Năm 1975 do chiến tranh một số lính chế độ cũ chạy
từ Tây Nguyên về làm hư hại rất lớn. Sau giải phóng Viện Thiết Kế của Sở Xây
dựng sửa chữa toàn bộ khu chợ và 1978 chính thức khai trương cửa hàng bách hóa
cho đến nay.