Tư liệu thuyết minh Nha Trang P12

TUYẾN ĐƯỜNG TỪ NGÃ BA THÀNH -NGÃ BA NHÀ MÁY SỢI - ĐÈO RÙ RÌ - SUỐI BA HỒ

Nằm ngay cây số 24 trên đường Nha Trang - Ninh Hòa rẽ vào Phú Hữu. Suối phát nguyên trên đỉnh Hòn Sơn cao 660m chảy giữa 2 triền núi đá xuống thôn Phú Hữu ở phía Bắc rồi vượt qua một cánh đồng rộng để xuống vùng Nha Phu. Gọi là Ba Hồ vì trên thượng lưu có 3 cái hồ lúc nào cũng đầy ắp nước. Hồ thứ nhất rộng chừng trên 100m2, lòng hồ rải rác vài hòn đá vừa chìm vừa nổi, chung quanh ngổn ngang những tảng đá thật to lớn. Hồ thứ nhì đi lên cách đó chừng 1km do đá ngăn nước đọng lại thành hồ nước rộng gần 100m2, lòng hồ cạn khoảng vài tấc. Đi lên cao khoảng 0,5km là hồ thứ ba. Hồ nằm ngay dưới chân một ngọn thác chảy và do thác đổ xuống thành lòng chảo, lòng hồ có nhiều cát và đá. Hồ nhỏ và cạn hơn hồ thứ hai.

Ba Hồ là một khu du lịch lý tưởng vào mùa hạ. Vượt đường xa vài chục cây số dưới trời

nắng gắt, khách tham quan sẽ được tận hưởng không khí trong lành và chiêm ngưỡng vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng hoang dã. Lòng người và thiên nhiên xung quanh sẽ hài hòa nhau trong bản giao hưởng du dương ngọt ngào của tiếng suối chảy, tiếng chim hót, tiếng lao xao của gió núi mây ngàn và hương sắc ngọt ngào của các loại cây rừng.



TUYẾN ĐƯỜNG TỪ NHA TRANG ĐI DỐC LẾT, VỊNH VĂN PHONG

Là một kỳ quan thiên nhiên tuyệt đẹp trong môi trường lý tưởng hiếm có với khí hậu ôn hòa, bãi biển đẹp, cát mịn, núi đồi hùng vĩ bao quanh cùng với những cánh rừng nhiệt đới hầu như còn nguyên vẹn, những rạn san hô đa sắc, đẹp sững sờ, có dấu tích sinh tồn của một khu rừng ngập mặn, hàng trăm sinh cảnh, muông thú đặc chủng và hàng chục ngàn loài thuỷ, hải sản quý. Đây là những ưu thế giúp Văn Phong có thế mạnh phát triển du lịch sinh thái rõ nét. Tổng cục Du lịch Việt Nam đã xếp Vân Phong vào “vùng du lịch trọng điểm phát triển”, trong kế hoạch dài hạn của ngành đến năm 2010. Vân Phong cũng được Hiệp hội Biển thế giới xếp vào danh sách 4 vị trí du lịch biển lý tưởng nhất hiện nay.

Đến nay, hệ thống điện lưới quốc gia đã được kéo đến tận mũi bán đảo Khải Lương. Đầu năm 2002, tuyến đường quan trọng Cổ mã - Đầm Môn với tổng vốn đầu tư 61 tỷ đồng do Sở Du lịch-Thương mại Khánh Hoà là đơn vị chủ đầu tư, đã chính thức được khởi công. Các dự

án khác đã được phê duyệt như: Cảng du lịch Đầm Môn, Dự án Cầu tàu du lịch Dốc Lết, đường lớn nối Ninh Phụng với Dốc Lết sắp được nâng cấp, trải thảm nhựa, Dự án khai thác, xử lý nước, công suất 5000m3/ngày... sẽ tiếp tục được triển khai nhằm từng bước hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho vùng du lịch quan trọng này.



ĐÈO CẢ:


Đèo Cả là đèo hiểm trở và hùng vĩ bậc nhất tại miền Trung - ranh giới giữa tỉnh Phú Yên (huyện Đông Hòa) và Khánh Hòa (huyện Vạn Ninh) trên Quốc lộ 1A. Đỉnh đèo có cao độ 333 m vượt dãy núi Đại Lãnh có chiều dài tổng cộng 12 km trong đó 9 km thuộc địa phận Phú Yên và 3 km thuộc địa phận Khánh Hòa. Đèo nằm giữa hai sườn núi Hảo Sơn (Hốc Ao) và núi Đá Bia (Thạch Bi Sơn).Hiện đang có kế hoạch xây dựng hầm đường bộ Đèo Cả để việc đi lại trên quốc lộ 1A không còn phải vượt qua đường đèo hiểm trở này

Đây là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành từ năm 1471 đến 1653. Trong cuộc nam tiến của Đại Việt, địa thế hiểm trở của khu vực đã khiến vua Lê Thánh Tông dừng chân tại đây năm 1471. Lê Thánh Tông đã tạo một tiểu vương quốc tại Phú Yên làm vùng đệm tên là Hoa Anh. Vì là vị trí ranh giới, nhiều cuộc xung đột giữa Đại Việt và Chiêm Thành đã xảy ra tại đây.

Nhiều cuộc giao chiến giữa chúa Nguyễn Ánh và anh em nhà Tây Sơn đã xảy ra tại đây giữa những năm 1771-1802. Trong tháng 1 năm 1947, Đèo Cả trở thành chiến trường giữa quân Pháp và Việt Minh.Tên "Đèo Cả" có khi Pháp đang xây Quốc lộ 1A. Trước đó đường Thiên Lý nằm phía tây của đường Đèo Cả.



ĐẠI LÃNH

Nếu đi ô tô trên quốc lộ 1A từ Bắc vào Nam, lúc vượt đèo Cả ngoằn ngoèo trên 10 km, một bên là núi rừng trùng điệp và một bên là Vũng Rô sâu thẳm nước lặng như tờ. Khi xe đổ dốc đến gần chân đèo, du khách sẽ thấy ''một vùng non xanh nước biếc như tranh họa đồ'' hiện ra trước mắt, đó là Đại Lãnh, một thắng cảnh đẹp tuyệt vời nằm cách thành phố Nha Trang về phía Nam chừng 80 km. Đại Lãnh nằm lọt thỏm giữa một bên là đèo Cả ở phía Bắc và một bên là đèo Cổ Ngựa ở phía Nam, ba mặt là núi vây quanh, chỉ có mặt đông trông ra biển Cả mênh mông sóng nước. Bãi biển Đại Lãnh dài đến ba, bốn km, cong cong hình lưỡi liềm, cát trắng phau và mịn màng được viền kín bằng những hàng dương rủ bóng thướt tha. Phong cảnh ở đây thật thơ mộng và hữu tình, khí hậu mát mẻ. Trong những tháng hè oi bức, khách bốn phương có thể về đây nghỉ ngơi, cắm trại vui chơi và nô đùa với sóng nước hoặc leo núi, ngâm mình trong làn nước trong xanh, mát lạnh.

Bãi biển Đại Lãnh được xếp vào loại lý tưởng và đẹp nhất ở nước ta. Không phải ngẫu nhiên mà Tổ chức du lịch thế giới (OWT) đã đánh giá Đại Lãnh là một trong những thắng cảnh đẹp nhất ở Đông Nam Á. Phong cảnh Đại Lãnh từ xưa đã được liệt vào hàng danh thắng của nước nhà. Năm 1830, Đại Lãnh được vua Minh Mạng cho thợ chạm vào cửu đỉnh đặt trước

sân thế miếu ở Kinh đô Phú Xuân (Huế). Đến thời Tự Đức, Đại Lãnh được ghi vào điển thờ. Thuở xa xưa, đường thiên lý Bắc Nam qua đây còn gập ghềnh, bốn bề hoang vắng, từng nổi tiếng với câu ''Cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận” và bọn thảo khấu lục lâm luôn luôn rình rập những người lỡ đường. Vì vậy, khách bộ hành thuở ấy từ Phú Yên đi vào Khánh Hòa hay ngược lại đều phải chờ nhau để đi thành từng đoàn đông người và thường nghỉ chân ở bãi Đại Lãnh. Chẳng bao lâu Đại Lãnh trở thành cái trạm mọc lên vài ba quán tranh nho nhỏ nghèo nàn để khách tạm nghỉ ngơi sau khi vượt qua đoạn đường đèo vất vả, gian truân.


Theo truyền khẩu dân gian, thời vua Thành Thái, có một người quê ở Thừa Thiên tên là

Phạm Ngũ Lão vào đây thấy phong cảnh hữu tình bèn lưu lại lập gia viên để vui thú cùng cỏ cây non nước. Ông ta vừa đi săn, bủa lưới kiếm sống vừa chiêu tập đuợc một số dân xiêu tán đang tha hương cầu thực về đây lập nghiệp, dựng lên làng Đại Lãnh. Kể từ ngày quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt được xây dựng và chạy ngang qua đây thì làng Đại Lãnh trở nên đông vui và trù phú. Ngày nay, Đại Lãnh trở thành một điểm du lịch, hàng ngày đón tiếp biết bao lượt khách ra Bắc, vào Nam dừng chân nghỉ ngơi, ăn uống. Còn xóm chài Đại Lãnh thì chạy dài theo bờ biển, đắm chìm duới bóng dừa và rừng dương mát mẻ, thơ mộng đến quyến rũ. Ga nhỏ Đại Lãnh nồng vị mặn của biển và gió cát. Ngoài khơi, xa xa nhấp nhô hòn Nưa, một cù lao có những vách đá dựng đứng trông như một pháo đài tiền tiêu canh giữ mặt biển suốt đêm ngày.



Tài liệu tham khảo thêm:

XỨ SỞ TRẦM HƯƠNG

Quách Tấn

Phần 1:

Xứ Ninh, tức Ninh Hòa xưa có tên là phủ Thái Khang chạy dài từ Ðèo Cả đến Ngọc Diêm, rộng khoảng 2.051km2 gần bằng phân nửa diện tích tỉnh Khánh Hòa.

Tỉnh Khánh Hòa thuộc miền Nam Trung Phần nằm giữa vĩ tuyến 12 và 13, chạy dọc bờ biển từ Ðèo Cả đến mũi Cà Tiên dài khoảng 120km, phía Ðông giáp biển, phía Tây giáp Ðắc Lắc, Tuyên Ðức, núi rừng chiếm 15/16 diện tích, hình dạng giống như cái bầu rượu, dưới chân núi Ðại Lãnh rộng chưa tới 1km, vùng Ninh Hòa, Diên Khánh, Vĩnh Xương có chỗ rộng tới 5, 6 chục km, vùng Cam Lâm còn chừng 15km.

Theo sách Non Nước Khánh Hòa viết năm 1968, diện tích toàn tỉnh là 5.997 km2, bằng 1/60 diện tích toàn quốc, chia ra như sau:

Vạn Ninh:
618 km2

Ninh Hòa:         1049 km2

Khánh Dương: 1384 km2

Vĩnh Xương:       296 km2



Diên Khánh:
1364 km2
Cam Lâm:
948 km2
Cam Ranh:
338 km2



Hiện nay, tỉnh Khánh Hòa có huyện Vạn Ninh, Ninh Hòa, Khánh Vĩnh, Diên Khánh, Khánh Sơn, quần đảo Trường Sa, thành phố Nha Trang, và thị xã Cam Ranh. Hải cảng Cam Ranh là một quân, thương cảng nổi tiếng trên thế giới.


Diện tích xứ Ninh là 2.051 km2 (đã trừ đi 1000 km2 của tỉnh Ðắc Lắc sáp nhập vào quận Khánh Dương, cộng thêm 290 km2 bị cắt giao cho tỉnh Ninh Thuận).

Núi Non xứ Ninh trùng điệp có nhiều hoành sơn ăn ra tận biển làm cho xứ Ninh đẹp như một bức tranh sơn thủy:

Ðường vô xứ Vạn xứ Ninh

Non xanh nước biếc như tranh họa đồ

Khi đến địa đầu tỉnh Khánh Hòa, du khách lọt vào một vùng núi non hiểm trở nối tiếp nhau chạy đến sát biển có ngọn cao gần 2.000 m quanh năm mây phủ, là bức thành thiên nhiên vĩ đại, ranh giới của 2 tỉnh Phú, Khánh, thời vua Lê Thánh Tôn (1470) có tên là núi Thạch Bi, núi Ðá Bia, nay là núi Tam Phong, núi Ðại Lãnh, núi Ðèo Cả.

Chiều chiều mây phủ Ðá Bia

Ðá Bia mây phủ cô kia mất chồng



NÚI ÐÈO CẢ: cao 407 m nằm sát biển.

Ðèo Cả băng qua núi này dài khoảng 10 km chạy ngoằn nghoèo giữa một bên là vách núi cheo leo, một bên là Vũng Rô sâu thăm thẳm. Ðường hầm xe lửa ăn thông qua lòng núi. Trên đỉnh đèo xưa kia có trạm Phú Hòa, nơi dừng chân của khách bộ hành trên đường thiên lý, có quán nước nhà trạm bằng tranh, có những người phu trạm lực lưỡng. Ðứng trên đèo nhìn về phía Nam, thấy xa xa là Ðại Lãnh, Tu Bông.

Phong cảnh Ðại Lãnh nổi tiếng từ lâu. Năm 1836 Vua Minh Mạng sai chạm hình Ðại Lãnh vào Tuyên đỉnh, là 1 trong 9 đỉnh bằng đồng để trước sân Thế Miếu ở Cố Ðô. Năm 1853 thời vua Tự Ðức, Ðại Lãnh được liệt vào Tự Ðiển.

Qua khỏi Ðèo Cả du khách vào đến núi Ðại Lãnh.

NÚI ÐẠI LÃNH: cao 626 m nhiều đá, cây cối dày đặc nằm thu mình vào trong nhường chỗ cho ga Ðại Lãnh. Núi chạy dọc theo bờ biển nối liền đèo Cả với đèo Cổ Mã.

Ðèo Cổ Mã băng qua núi Cổ Mã, thấp, ngắn, chạy sát biển, cách đèo Cả độ 4 km, phong cảnh nên thơ.

NÚI CỔ MÃ từ ngoài biển nhìn vào có hình thể giống như cổ ngựa. Sát liền với núi Ðại Lãnh và núi Cổ Mã là núi Ðồng Cọ (Phú Mỹ).

NÚI ÐỒNG CỌ: cao chót vót thường có mây mù bao phủ, buổi chiều hay mưa, nên có câu "Mưa Ðồng Cọ". Nối liền với núi Ðồng Cọ có núi Xá.

NÚI XÁ: cao 680 m, tên chữ là Tô Hà, dưới chân núi xưa kia có trạm Hòa Mã nay là Quốc lộ 1. Ði xe lửa vào khi chui khỏi hầm Cổ Mã du khách sẽ thấy núi Xá nằm bên tay phải, tiếp theo núi Xá là núi Hoa Sơn.


NÚI HOA SƠN: cao 728 m ở phía Tây Tu Bông (Vạn Khánh) xưa gọi là Hoa Sơn hay Tô Sơn, sau đọc trại thành Tu Hoa, Tu Bông, chạy dài từ Tu Bông đến Gành Bà. Dưới chân núi là đường Gia Long, có truông Hụt, nay gọi là truông Tân Dân vì truông chạy qua thôn này. Nơi này xưa kia nổi tiếng nguy hiểm vì có nhiều cọp thường ra rình bắt khách bộ hành, nên ai qua truông được bình an thì cũng giống như người chết hụt vậy, đặt truông Hụt là có ý nghĩa như thế. Giữa núi Xá và núi Hoa Sơn có nguồn sông Tu Bông, trên nguồn có Ðập Sổ, nguồn này ăn sâu vào núi Ðồng Cọ.

Gành Bà ở dưới chân núi cách biển gần 3km, gọi Gành Bà là vì xưa kia biển ăn sát chân núi, những tảng đá to bị sóng gió đánh mòn lẳn hiện vẫn còn, có 1 cái hồ rất lớn chảy theo mương Vĩnh Huề vào cánh đồng Tứ Chánh, Mỹ Cang.

Tu Hoa hay Tu Bông nổi tiếng nhiều gió do ở phía Tây Bắc địa hình đang cao như một bức trường thành bỗng nhiên có một chỗ hạ thấp xuống thành thung lũng, nên gió Lào, gió Bấc tha hồ thổi. Gió Lào (vào mùa Hạ) thổi qua Tu Hoa nên có câu "Gió Tu Hoa". Gió Bấc (vào mùa Ðông) thổi qua thung lũng phía Tây Bắc nơi đó gọi là Eo Gió. Gió Lào gió Bấc đều thổi tới Tu Bông nên Tu Bông có tên là Tụ Phong Xứ, nghĩa là nơi tụ gió, gió thổi ào ào suốt ngày suốt tháng. Ðến Tu Bông du khách nghe 2 câu hát ru em phổ biến:

Gió đâu bằng gió Tu Bông

Thương ai bằng thương cha, thương mẹ, thương chồng, thương con

Bước lên Ðèo Cả

Trông vào Vạn Giã, Tu Bông

Biết rằng cha mẹ đành không?

Anh chờ em đợi uổng công hai đàng

Qua khỏi Gành Bà đi lên là núi Dốc Mỏ.

NÚI DỐC MỎ cao 1.015 m, tại núi này có con đường mòn xuyên sơn đi qua Phú Yên, những năm kháng chiến

1945-1954 giặc Pháp bỏ thây tại đây rất nhiều. Năm 1947, cụ Mai Phong có làm một bài thơ trên đường tản cư chạy giặc như sau:

Dặm đường Dốc Mỏ nghĩ mà ghê

Chồng chất non cao đá tứ bề

Chim thú vắng tanh cây rậm rạp

Gió mưa ròng rã nước lê thê

Lên đèo vượt suối bao nguy hiểm

Gối gió nằm sương đã chán chề


Trăm đắng ngàn cay ta chẳng nệ

Quyết dành độc lập sớm đem về.



Từ Dốc Mỏ đi vào là núi Hóc Chim.

NÚI HÓC CHIM: cao 903 m ở phía Tây Vạn Giã chỗ ga xe lửa đi lên. Qua khỏi núi sẽ đến thôn Xuân Sơn chẳng khác gì một Trùng Khánh hay một Ðiện Biên Phủ vì tứ bề núi non bao bọc chỉ có 1 con đường độc đạo đi ra.

NÚI BỒ ÐÀ: còn gọi là Phổ Ðà cao 292 m thuộc thôn Xuân Tự, xã Vạn Hưng, trông giống như con voi, sườn núi lồi lõm, phía Ðông có một ngọn núi nhỏ hơn tên Dốc Thị. Năm 1956, Thượng Tọa Viên Giác xây dựng ngôi chùa Giác Hải và Điện Nam Hải Quan Âm trên núi Phổ Đà:

Ai ngang qua núi Phổ Đà

Thăm chùa Giác Hải viếng tòa Quan Âm

(Thanh Trúc)



NÚI DỐC THỊ: tên chữ là Phiên Lê, Quốc lộ 1 băng qua núi này tại đèo Dốc Thị.

Ðèo Dốc Thị, tức đèo Xuân Tự chỉ như một con dốc.

Núi Bồ Ðà và núi Dốc Thị trông giống như hai chị em. Thời Pháp, nghĩa quân Cần Vương do Trần Ðường chỉ huy đóng tại núi Bồ Ðà khống chế đèo Dốc Thị để chống giặc Pháp còn ghi những chiến công oanh liệt.

NÚI CHÙA: thấp, cùng một sơn mạch với Bồ Ðà, Dốc Thị còn lưu ít dấu tích thành lũy Chiêm Thành, trên núi xưa kia có một ngôi chùa.

NÚI QUÁN: còn gọi là núi Mỹ Ngọc, núi Dàn, cao 473m, mặt Tây núi trùng điệp chạy tới Hòa Quỳnh. Xưa có một vị Thiền sư tu trên núi đã giúp khách bộ hành có chỗ nghĩ chân, ngài che một quán tranh dưới chân núi cạnh đường thiên lý. Những gò đống dưới chân núi có 9 nổng đất cao gọi là Chín Cụm.

NÚI ÐÁ ÐEN: cao 617 m thuộc xã Vạn Hưng, nằm ở phía Tây núi Quán giáp huyện Ninh Hòa. Màu đá đen cháy, có nhiều chướng khí từ trong khe núi bốc ra. Trên núi hiện còn

những dấu tích thành lũy Chiêm Thành gọi là Thành Hời. Dưới chân núi là láng Chu và cánh đồng của thôn Xuân Sơn, vùng này xưa kia là bãi chiến trường oan khí tích tụ lâu ngày sinh ra quỷ quái.

Giáp với núi Hoa Sơn và núi Ðồng Cọ về phía Tây là núi Ba Non, sách Ðại Nam Nhất Thống Chí ghi là núi Tam Phong.

NÚI TAM PHONG: nằm giữa 2 tỉnh Phú, Khánh gồm có 3 ngọn cao chót vót nên dân địa phương gọi là núi Ba Non:


Ngó lên đỉnh núi Ba Non

Công cha nghĩa mẹ làm con phải đền

(Ca dao)

Ba ngọn đó là:

HÒN GIỮ còn gọi là Trấn Sơn, cao 1.264 m.

HÒN NGANG còn gọi là Hoành Sơn, cao 1.128 m.

HÒN GIÚP còn gọi là Hòn Giút, hay Hộ Sơn, cao 1.127 m.

Chung quanh, nhiều núi non triều quy có hùng khí ngất trời nằm giáp tỉnh Phú Yên, thuộc hệ thống dãy núi Vọng Phu. Núi Ba Non giáp với núi Hòn Ðá Chồng, Hòn Ông, Hòn Chúa ở Phú Yên, ở giữa có đèo Cục Kịch là con đường mòn xuyên sơn qua lại giữa hai tỉnh trước khi có đường đi qua đèo Cả, mà người ta thường gọi là đường Gia Long. Thế núi hùng vỹ, ngày xưa triều đình nhà Nguyễn có đặt điển lệ, hàng năm quan đầu tỉnh phải đích thân đến tận nơi cúng tế rất trọng thể.



Phần 2:

Ngược về hướng Tây Nam, núi Ba Non giáp với các núi:

HÒN CHẢO cao 1.564 m ở về hướng Tây Bắc của Vạn Giã thuộc xã Vạn Hưng có hình thù cao lớn địa thế hiểm trở, đỉnh núi lõm xuống thành lòng chảo, có lẽ khi xưa là miệng núi lửa.

HÒN CHÁT cao 1.519 m.

HÒN ÐA ÐA cao 1709 m.

Nối liền với 3 ngọn núi trên là núi Vọng Phu nổi tiếng khắp nước.

NÚI VỌNG PHU: cao 2.051m, là ngọn núi chúa, cao nhất tỉnh Khánh Hòa.



Người Pháp gọi là "La Mère et l' Enfant" (núi Mẫu Tử, hay núi Mẹ Bồng Con), người Thượng gọi là "T. Ý Angmtèn". (Ảnh Núi Vọng Phu)


Núi Vọng Phu nổi bật trên hàng trăm ngọn nằm về hướng Tây Bắc của Thị Trấn Ninh Hòa, nằm về hướng Tây của Vạn Giã và nằm về hướng Ðông của huyện lỵ Khánh Dương. Chóp núi là một khối đá hoa cương khổng lồ cao vút dựng đứng giữa trời. Khối đá thứ hai thấp hơn đứng sát bên cạnh. Hai khối đá này trông giống như hai mẹ con nàng Vọng Phu đứng trên đỉnh núi. Từ Thị trấn Ninh Hòa cách xa trên 30 km nhưng vào những ngày đẹp trời vẫn nhìn thấy núi Vọng Phu rất rõ.

Núi tọa lạc tại 12° 41' 40'' Bắc vĩ tuyến và 106° 36' 03'' kinh tuyến Ðông, cách bờ biển


khoảng 30 km, cách quận lỵ Khánh Dương khoảng 18 km. Ði ô tô theo con đường liên tỉnh số 9 mất độ nửa giờ, rồi đi bộ chừng 5 km đường rừng là đến chân núi, và leo núi tiếp độ nửa ngày nữa là đến chỗ "Mẹ Bồng Con".

Quách Tấn gọi hòn Mẫu Tử là "Cảnh lạ trong đời như ngọn Khuông Lư của Thánh Thán".

Tương truyền có 2 vợ chồng trẻ sanh được 1 đứa con gái 4 tuổi, một hôm người chồng bàn với vợ rằng ở trên núi cao có cây dó là đất đai của Bà Thiên Y A Na rất linh thiêng, chàng muốn lên đó để tìm của kỳ nam mang về bán làm chút vốn làm ăn hầu thay đổi cuộc sống lam lũ hiện tại. Ðược vợ đồng ý chàng sửa soạn hành lý, trên lưng địu một gùi lương khô, tay cầm rìu, rựa, miệng ngậm ngãi từ biệt vợ con ra đi. Nhưng ngày qua tháng lại... chẳng thấy chàng trở về, hai mẹ con chiều chiều dắt nhau lên đầu núi ngóng trông rồi hóa đá thành núi Mẫu Tử.

Một tương truyền khác nói rằng ngày xưa có 2 vợ chồng tiều phu hiếm muộn đã đi cầu tự khắp các đền chùa, cuối cùng sinh được 1 cô gái dễ thương và qua năm sau sinh tiếp 1 cậu trai kháu khỉnh.

Một ngày nọ 2 chị em róc mía ăn và tranh giành với nhau sao đó, đứa em lỡ tay làm trúng 1 dao lên đầu chị máu ra lai láng... vì sợ quá nên bỏ nhà trốn biệt. Cha mẹ tìm mãi vẫn không thấy con đâu, buồn khổ rồi qua đời, bỏ lại cô con gái chỉ có 1 mình bơ vơ nên cũng bỏ xứ ra đi. Ðứa em trai từ lúc bỏ chạy tới mé biển gặp một chiếc thuyền buôn, xin theo và sống rày đây mai đó... về sau trở thành một thương nhân khá giả. Một hôm chạnh lòng nhớ cố hương mới tìm đường trở về quê cũ, nhưng chẳng còn ai nên cũng bỏ ra đi. Ði đến một thung lũng chàng gặp một cô gái, 2 người thương nhau rồi kết thành vợ chồng sanh được 1 bé gái xinh đẹp gia đình sống rất đầm ấm hạnh phúc. Một hôm người vợ ngồi gội đầu... người chồng nhìn thấy 1 vết sẹo trên đầu vợ mới hỏi nguyên do, nàng thành thật kể lại đầu đuôi câu chuyện... Chàng chết điếng khi biết người đầu ấp tay gối bấy lâu nay chính là chị ruột của mình nên đau khổ bỏ đi. Nàng chẳng hiểu vì sao... mới nhờ người tìm kiếm khắp nơi nhưng chẳng thấy tăm hơi, cuối cùng bồng con lên núi ngóng trông rồi hóa thạch thành núi Mẹ Bồng Con.

Một huyền thoại khác kể rằng ngày xưa có một "chàng tuồi trẻ vốn dòng hào kiệt " yêu một cô gái nết na, xinh đẹp nhất vùng. Họ kết duyên với nhau và sống quấn quít bên nhau rất hạnh phúc, nàng dệt cửi quay tơ, chàng dùi mài kinh sử chờ ngày ra Kinh Ðô ứng thí. Khi nàng sanh được 1 đứa con gái xinh xắn thì quân giặc tràn đến xâm lấn cõi bờ:



"Trống trường thành lung lay bóng nguyệt,

khói cam tuyền mờ mịt thức mây,

chín tầng gươm báu trao tay,

nửa đêm truyền hịch định ngày xuất quân".

Chàng tuổi trẻ đành xếp bút nghiên, từ tạ người vợ trẻ lên đường ra biên ải rồi hy sinh ngoài

chiến địa. Ở quê nhà nàng chinh phụ ôm con đợi chờ rồi hóa đá thành núi Vọng Phu, những


giọt lệ của nàng rơi xuống hóa thành sông, có tên là sông Cái chảy vào sông Dinh để ra biển.

Em không nghe mùa thu

Dưới trăng mờ thổn thức?

Em không nghe rạo rực

Hình ảnh kẻ chinh phu

Trong lòng người cô phụ?

(Lưu Trọng Lư, Tiếng Thu)

Người cô phụ là tảng đá cao, và đứa con gái là tảng đá thấp, nhưng ở quê tôi người ta nói rằng vì đợi chờ quá lâu nên cô gái nay đã cao hơn mẹ, còn người mẹ thì nay đã già lưng khòm tóc bạc: "Người mẹ chính là tảng đá to và thấp còn cô gái là tảng đá nhỏ và cao."

Quả là:

Nắng chiều soi đá ra vàng

Trên non còn một mình nàng chơ vơ

ẵm con nhìn cõi mịt mờ

Mong chồng biết đến bao giờ mới thôi

(Phạm Ðình Tân)

Thời học sinh, tôi có nghe các thầy cô giáo nói rằng núi Vọng Phu là "một biểu tượng của lòng chung thủy mà Trời đã ban cho xứ Ninh ".

Trước khi đi xa, vào những chiều mùa Hạ tôi thường ra bờ sông Ðá quê tôi nhìn lên hướng Tây Bắc, nàng Vọng Phu hiện ra rất rõ sừng sững giữa mây trời, lòng tôi hòa với bao nỗi ngậm ngùi trước những câu chuyện kể thật vô cùng ảo não thương tâm, tôi có làm một bài thơ Ðường luật mang tên: "Núi Vọng Phu 1, 2, 3".

Xin trích đoạn đầu:

Sừng sững đầu non mỏi mắt trông

Ngóng chồng xa thẳm bể mênh mông

Chiến trường chẳng tiếc đời xuân trẻ

Quê kiểng nào đau phận má hồng?

Chờ đợi mỏi mòn tình hóa đá

Nhớ thương chung thủy lệ thành sông

Nghìn năm đứng đó mây in bóng

Thung lũng quê Ninh động cõi lòng


Núi Vọng Phu đã đi vào âm nhạc với nhạc phẩm bất hủ "Hòn Vọng Phu 1, 2, 3" của Lê Thương. Bản nhạc "Ơi Con Sông Dinh" rất nổi tiếng của Hình Phước Liên cũng có nhắc đến địa danh này.



Trong bài: "Dục Mỹ - Quê Xưa Yêu Dấu" của Hà Thị Thu Thủy có một đoạn viết về Núi

Vọng Phu như sau: " Xa hơn nữa, một dãy núi cao vời vợi với hai chóp núi cao và thấp, nằm kế cận bên nhau mà người dân Dục Mỹ gọi là núi Vọng Phu. Ðây là một ngọn núi lịch sử làm tôi rất hãnh diện cho quê nhỏ của tôi bởi lẽ theo truyền thuyết xa xưa truyền tụng về một sự tích nói lên sự chung thủy của người phụ nữ chính chuyên bồng con chờ chồng biền biệt ngoài quan san biên ải, và đặc biệt nhắc tôi nhớ lại 3 bài hát bất hủ "Hòn Vọng Phu 1,2, 3" do cố nhạc sĩ Lê Thương sáng tác."



Núi Vọng Phu đã trở thành nguồn xúc cảm sâu xa của những vần thơ:

Bao năm đâu quản nắng mưa

Bồng con đứng đợi vẫn chưa thấy về

Thời gian bôi xóa lời thề

Mẹ con hóa đá bên lề tháng năm

(Ca dao)

Lạy Bà cho nổi gió đông

Cho thuyền tôi chạy cho chồng Bà lên

(Ca dao)

Lạy Bà cho thổi gió nồm

Chồng Bà ở Quảng giong buồm theo vô

(Ca dao)

Hình đá ai đem đặt biển Ðông

Giống hình nhi nữ dạng ngồi trông

Da nhồi phấn tuyết phơi màu trắng

Tóc gội dầu mưa giũ bụi hồng

(Tôn Thọ Tường)



Nhìn con chạnh tủi lệ sầu đông

Hóa đá trơ hình dạng ngóng trông


Ðêm hứng sương chan đầu điểm bạc

Ngày phơi nắng rán má phai hồng

Gió lay những đợi thuyền ai ghé

Trăng dọi nào dè bến nước không

Sương tuyết chi sờn gan sắt đá

Khư khư một dạ chẳng hai chồng

(Song Thanh)



Ðứng đó bao giờ đến bây giờ

Trông chồng thành đá khối trơ trơ

Xuân tàn thu đến trông muôn dặm

Gió tạt mưa tuôn quyết một thờ...

(Ngọc Xích)



1.

Chồng đi biệt tích tự bao giờ

Một góc trời riêng một dạ chờ

Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nượp nượp

Tóc thề mây núi bạc phơ phơ

Non chồng nghĩa nặng cao vòi vọi

Nước vướng tình sâu chảy lững lờ

Dâu bể đã bao đời kiếp trải

Lòng son một tấm mãi trơ vơ

Người đã không về tin cũng không

Ðầu non dắt trẻ đứng trông chồng

Nước mây quạnh vắng dòng khô lệ

Mưa nắng phôi pha má lợt hồng

Lời thệ vững ghi lòng sắt đá

Khối tình riêng nặng gánh non sông


Nỗi niềm ai biết ai không biết

Gương nguyệt nghìn thu rạng biển Ðông

(Quách Tấn, Ðá Vọng Phu)



Thầm thỉ duyên xưa khôn mở miệng

Nước non còn đó nước non hay.

(Vô Danh Thị)



Ôm trẻ dầm sương ai biết có?

Trông chồng thành đá kẻ rằng không!

Trơ trơ một khối từ sơ tạo

Thêu dệt ra chi chuyện ngóng chồng.

(Thường Tiên)



Ôm khối tình thâm thi với đá

Ðem nguồn lệ thảm đọ cùng sông

Ngàn năm đá tạc gương cô phụ

Ấp ủ quê Ninh một tấm lòng.

(Ðiềm Ca)



Phần 3:

Khi qua khỏi núi Ðá Ðen của Vạn Ninh bước vào địa phận Ninh Hòa, du khách sẽ nhìn thấy một ngọn núi có hình thù rất dễ thương, đó là Hòn Vung.

HÒN VUNG cao 326 m, thuộc xã Ninh An, huyện Ninh Hòa, đứng thẳng, dáng thanh tú,

đỉnh nhọn vút lên trời xanh, trông giống như một Nhũ Sơn nhưng lại đặt tên là Hòn Vung, có

lẽ vì người đặt tên cho núi muốn có một mối quan hệ tình cảm lứa đôi tốt đẹp nào đó giữa Hòn Vung của Ninh Hòa và Hòn Chảo của Vạn Ninh cách 10 km về hướng Bắc.

NÚI PHƯỚC HÀ còn gọi là Hòn Hèo, ở phía Ðông Thị Trấn Ninh Hòa rộng hàng trăm cây số vuông chạy ra biển theo hướng Ðông Nam, là một bán đảo dài trên vài chục km, rộng cả chục km, nằm trên địa phận 3 xã Ninh Phú, Ninh Diêm, Ninh Phước. Biển bao quanh 3 mặt, gồm vịnh Vân Phong, vịnh Nha Phu. Phước Hà Sơn là 1 quần sơn có hình dạng giống như cái đuôi rồng giỡn nước "vĩ long hí thủy", gồm cả chục ngọn liên sơn, cao nhất là Hòn Hèo 819 m, Hòn Tiên Du 777 m, hòn Phủ Mái Nhà 725 m. Phía Ðông có Hòn Nhọn, Hòn Răng Cưa cao dưới 500 m. Vì Hòn Hèo cao nhất nên quần sơn Phước Hà còn có tên là Hòn Hèo, nơi có nhiều mây bông (hoa đằng) vừa to vừa thẳng dùng làm gậy, hèo rất đẹp: "mây Hòn Hèo".


Sau lưng Hòn Hèo là nhà máy xi măng Hòn Khói thuộc xã Ninh Thủy và nhà máy đóng tàu Huyndai thuộc xã Ninh Phước.

Hòn Hèo có suối Hoa Lan, còn gọi là suối Tử Sĩ, thuộc xã Ninh Phú, huyện Ninh Hòa, muốn lên đó phải mất 2 ngày leo núi. Nơi đó, cả một rừng cây mọc trên đá với vô số loài hoa có tên lẫn không tên, nhiều nhất là phong lan. Suối Hoa Lan dài khoảng 6 km, được hình thành từ nhiều suối nhỏ, nước trong vắt chảy rầm rì hòa với tiếng chim kêu, phảng phất mùi hương rừng dịu nhẹ, mang một vẻ đẹp hoang sơ nguyên thủy. Chảy qua nhiều ghềnh thác cheo leo, trước khi đổ vào vịnh Nha Phu suối băng qua một vùng đất bằng có diện tích khoảng 20 ha.

Từ bến Ðá Chồng sát Quốc lộ 1, thuộc Cát Lợi, huyện Vĩnh Xương, sau 30 phút tàu thủy sẽ cập bến Hòn Hèo, du khách đến suối Hoa Lan. Có 1 tảng đá nằm dưới chân suối khắc chữ Chàm ghi sự kiện ngày xưa vua Chàm thường đến đây hành hương. Theo bước chân người xưa du khách sẽ gặp những ghềnh đá cheo leo hùng vĩ, và các ngọn thác số 1, số 2... mỗi thác có một dáng vẻ khác nhau. Thác số 4 cao nhất khoảng 350 m.

Công ty Khatoco đầu tư xây dựng suối Hoa Lan thành khu du lịch: tắm suối, tắm biển, bơi thuyền, câu cá, thả lưới, soi tôm cua ban đêm. Ở lại đêm có nhà sàn kiểu Tây Nguyên thơ mộng.

Dọc theo vịnh Nha Phu bờ đá ngổn ngang chồng chất, vách đá dựng đứng cao ngất dài đến 3,

4  km. Mặt trong của núi càng kỳ dị, hiểm trở, tại Hòn Tiên Du có 1 cái hang rất lớn chứa cả 3, 4 trăm người nằm ở lưng chừng núi, vì trước kia có 1 vị Thiền sư đến ẩn tu nên hang có tên là Chùa Hang. Gần Chùa Hang có một địa danh khá nổi tiếng tên là Ðá Trải, hình chữ nhật dài khoảng 70 m rộng khoảng 50 m nằm lài lài trên triền núi.

NÚI HÒN KHÓI: Tại phía Bắc dãy núi Phước Hà trên 1 doi đất chạy dài xuống vịnh Vân Phong nổi lên 1 ngọn núi nhỏ chỉ cao độ 155 mét, nhưng lại rất nổi tiếng, đó là núi Hòn Khói, tên chữ là Yên Cang.

Dưới chân núi Hòn Khói có đầm Ðông Hải, quanh đầm về phía Ðông và phía Tây rải rác 1 số gò đống. Cả vùng này mang tên là Hòn Khói, người Pháp gọi là Hone Cohé.

Truyền rằng quân Nguyễn Ánh thường đóng ở đây, trên núi có đặt trại canh, hễ thấy thuyền chiến của quân Tây Sơn xuất hiện thì phải đốt khói lên để làm hiệu nên núi này được gọi là Hòn Khói.

Theo sách Non Nước Khánh Hòa, Hòn Khói tên chữ là Yên Cang tuy không cao nhưng đủ sức ngăn gió, nên vùng này trở thành hải cảng đón tiếp những chiếc tàu buôn vào lấy muối. "Sở dĩ gọi là Hòn Khói, vì xưa kia tại đây là cửa biển quan trọng, triều đình cho đặt quan trấn phòng ngự, trên đỉnh núi có chất củi khô, khi nào có giặc bể vào cướp bóc, thì quan trấn ra lệnh đốt lửa un khói làm hiệu để gọi quân tiếp viện."


Cũng có thuyết cho rằng vùng núi này xưa kia là núi lửa đã nguội, thỉnh thoảng động đất núi bị rạn nứt, khói trong lòng đất theo kẻ hở bay ra, do đó người ta mới đặt tên cho núi là Hòn Khói.

Năm 1825, Yên Cang đổi thành Vân Phong.

NÚI Ổ GÀ thuộc xã Ninh Ðông, cách huyện lỵ Ninh Hòa khoảng 3 km nằm dọc theo đường hỏa xa, xưa núi nổi tiếng nhiều cọp: "Cọp Ổ Gà"

Ðèo Bánh Ít tức là Ðèo Hà Thanh gần núi Ổ Gà, xưa cọp thường ra rình bắt người, dân địa phương có lập một miếu nhỏ gọi là miếu Ông Hổ.

Tại địa phận xã Ninh An có các ngọn như:

HÒN HẤU

HÒA SƠN

HÒN THƯỢNG

GIỒNG CÔ BỐN

GIỒNG CỐC

Tại làng Phú Sơn có:

NÚI ÔNG TÂY, hiện còn 1 lô cốt, dấu tích của đồn bốt thời Tây.

Tại làng Phú Văn có 1 cái gò cát rộng tên:

GÒ DINH, trước đây người ta nhặt được một sợi dây neo của thuyền biển nằm trong lòng đất khi đào giếng, nên người trong làng cho rằng vùng này xưa kia là biển, hiện có 1 bàu sen rất lớn nằm bên cạnh.

Tại vùng Lòng Hồ Ðá Bàn có:

NÚI ÐÁ BÀN THƯỢNG và NÚI ÐÁ BÀN HẠ: mạch núi tiếp giáp với vùng rừng núi Ba Non, Vọng Phu, thế núi vô cùng hiểm trở. Có một con đường đôc đạo chạy ngoằn ngoèo ăn thông với mật khu Ðá Bàn, một bên là vách núi cao chót vót, một bên là dòng sông Ðá Bàn (sông Lốt) sâu như vực thẳm. Con đường này là mồ chôn nhiều giặc Pháp trong những năm kháng chiến chống thực dân xăm lược.

NÚI ÐẤT ÐỎ ở phía Tây núi Ổ Gà, núi thấp có nhiều heo rừng: "Heo Ðất Ðỏ"

NÚI ÐEO nằm chắn ngang Quốc lộ 21.

Ðèo Núi Ðeo thấp, ngắn, còn gọi là đèo Cạnh băng qua núi này.

Từ đèo Núi Ðeo đi dọc theo con mương từ đập Suối Trầu chảy xuống các xã Ninh Hưng, Ninh Lộc... sẽ nhìn thấy những ngọn núi:

HÒN LÁCH


GIỒNG ÐỀN

HÒN LỚN còn gọi là Hòn Bà cao 1356 m, nằm tại phía Tây Nam Thị Trấn Ninh Hòa, thuộc xã Ninh Hưng đứng song song với Hòn Long theo hướng Tây Bắc - Ðông Nam. Cây cối rậm rạp, có nhiều cây dó cho kỳ nam trầm hương. Dân Ninh Hòa cho núi này là núi của Bà Thiên Y A Na, trên núi có lập miếu thờ, dân đi địu tìm trầm trước khi lên đường thường mang lễ vật đến tận Miếu Bà cầu khẩn.

Tiếp giáp với Hòn Lớn là những hòn:

HÒN LONG hay Hòn Ông, cao 1339 m

HÒN DUNG cao 1290 m

HÒN DÙ (886 m)

HÒN GIỮ hay hòn Dữ cao 674 m

HÒN SẦM nằm cạnh Quốc lộ 1, thuộc xã Ninh Giang

HÒN HOÀI thuộc xã Ninh Hà.

Tại xã Ninh Bình có một cái gò mọc toàn cây quít, nên gò được đặt tên là

GÒ QUÍT: Theo Nguyễn Văn Thành, tác giả bài "Trái Quít Ninh Hòa", xôi quít ăn rất ngon và thơm là món ăn đặc sản của người Ninh Hòa. Ðến mùa quít dân Ninh Hòa thường lên Gò Quít hay vô Hòn Sầm để hái trái quít về hấp xôi.

HÒN NÚI ÐẤT nằm cạnh Quốc lộ 1, thuộc xã Ninh Hà, Ninh Quang HÒN XANG nằm cạnh Quốc lộ 1 thuộc xã Ninh Lộc

Truyền rằng thuở tạo Thiên lập Ðịa có một ông Khổng Lồ đào đất vịnh Nha Phu gánh đổ núi Hòn Bà. Một hôm vì gánh 1 gánh đất quá nặng, 1 chân đứng dưới vịnh Nha Phu, 1 chân đặt lên một tảng đá lớn tại Trảng Trung, xã Ninh Lộc, ông cố vận dụng hết sức mạnh để bước lên không ngờ tảng đá bị lún sâu xuống in nguyên bàn chân khổng lồ của ông và làm đổ cả 2 thúng đất xuống cánh đồng tạo thành 2 hòn núi, mà ngày nay có tên là Hòn Sầm và Hòn Núi Ðất nằm cạnh Quốc lộ 1, còn dấu chân bị lún sâu xuống đá tại Trảng Trung có tên là Bàn Chân Ông Khổng Lồ.



HÒN GIỐC THƠ cao 423 m, có tên là núi Ðá Vách hay gò Thạch Lũy vì nơi đây xưa kia quân Chiêm lợi dụng thế núi hiểm trở ăn sát bờ biển mới đắp thành xây lũy rất kiên cố để phòng vệ, hiện nay dấu tích vẫn còn. Thành toàn bằng đá xếp có thứ lớp, dưới chân thành có 1 hồ nước trong vắt sâu thăm thẳm, được xếp đá thành bờ trông rất đẹp. Ngày nay trên núi còn đồn bót do quân Pháp xây.

Tại núi này có đèo Rọ Tượng dài khoảng 40m, chạy sát biển, 2 bên đèo có miếu cô hồn.

Qua khỏi Lương Sơn thuộc huyện Vĩnh Xương trước khi vào thành phố biển Nha Trang sẽ gặp đèo Rù Rì. Ðèo cao khoảng 84 m dài độ 1 km uốn hình chữ chi rất gấp thật là nguy hiểm có lập miếu cô hồn tại đây. Ðây là đèo cuối cùng của tỉnh Khánh Hòa và cũng là đèo cuối cùng của miền Nam Trung phần.


Nhìn chung, núi non xứ Ninh hoành tráng hiểm trở án ngữ bốn mặt chiếm phần lớn diện tích, có nhiều hoành sơn ăn ra tận biển như những con rồng xanh giỡn nước tạo nhiều cảnh đẹp cho xứ Ninh. Ngoài ra, nhờ lòng hồ, ao nước, khe suối nằm trên núi theo thế "long ngọa yểm sơn" nên núi non xứ Ninh tươi tốt quanh năm, nước sông nhờ thế cũng ít cạn vào mùa nắng.

Núi rừng xứ Ninh nổi tiếng với các loại gỗ quý Cẩm Lai, Giáng Hương, nhất là Trầm Kỳ lấy từ cây Dó. Theo sách Xứ Trầm Hương thì Trầm Kỳ xứ Ninh được liệt vào loại Trầm Kỳ tốt nhất nhì trên thế giới.

Vì thế người xứ Ninh luôn yêu quý và tự hào về quê hương của mình:

Xứ Ninh non nước hiền hòa

Người quê Ninh sống thật thà dễ thương

Xứ Ninh quê của trầm hương

Bức tranh thủy mạc vấn vương tình người

Dù cho bão dập sóng dồi

Người quê Ninh vẫn giữ lời nước non

Dù cho đá lỡ non mòn

Tình quê Ninh vẫn sắt son một lòng

Sông Dinh còn chảy còn trong

Vọng Phu còn đứng còn mong người về

Dù cho cách trở sơn khê

Người quê Ninh chẳng quên quê hương mình.