Tư liệu thuyết minh Nha Trang p11


Chuyên đề: DU LỊCH NHA TRANG BẰNG THƠ

Thơ khuyết danh

Ai về có nhớ Nha Trang

Nước xanh trong vắt người xinh mặn mà

Nào là núi, nào là hoa

Có tôm, có mực, có cua, có hào

Ôi nhắc mà thèm làm sao

Chẳng như Thủ Đức sánh sao mà bằng

Ở nơi đó có chị Hằng


Mà sao chú Cuội cách hằng trăm cây.



Ca dao:

Ai về viếng cảnh Khánh Hòa

Long Sơn nên ghé tháp Bà đừng quên

Kim Thân Phật tổ nhớ lên

Nhìn ông Phật trắng ngồi trên lưng trời



ĐẶC SẢN NHA TRANG

Yến sào Hòn Nội

Vịt lội Ninh Hòa

Tôm hùm Bình Ba

Nai khô Diên Khánh

Trầm Hương Võ Cạnh

Sò huyết Thùy Triều



Rừng dừa xanh ngát Cam Ranh

Trái sai nước ngọt nên anh quên về



“Lưỡng ngạn vi lô trường đáo hải

Tứ biên hoàng dịp giục vi thu

Dịch

“Trắng lợp đôi bờ lau tới biển

Vàng bay bốn phía lá gieo thu”


Ca Dao

Ai đứng hòn Chồng

Trông sang Hòn Yến

Lên thăm Tháp Bà


Về viếng Sinh Trung

Non xanh nước biếc chập chùng

Biết bao liệt nữ anh hung em ơi

Em hãy nhận lời

Cùng anh kềt ngãi

Đầu nguồn cuối bãi

Ta hãy nương nhau

Biển Cù nước mãi còn sâu

Công linh chẳng trước thời sau cũng thành



Đất nắn trời nung khéo định đôi

Hòn Chồng đực cái phối hai ngôi

Ông xây nên đống cây chồi mục

Mây nủi rủ giăng màn tinh túc

Nước khe hầu rót chén giao bôi

Non thề giai lão trơ trơ đó

Gió chẳng lung lay song chẳng bồi

Trần Cao Vân



Cắc cớ cho rồi đấng hóa công

Sinh non Bà lại có non Ông

Xem qua những tưởng hai hòn núi

Hỏi lại thì ra cặp vợ chồng

Nước rẽ khối tình trơ tráo mặt


Sóng trêu gan đá dững dưng long

Tháng ngày đối diện cùng nhau đó

Gang tấc mà ra cách mấy trùng

Bà Tùng Trang




Sóng lặng tâm cù non gởi bong

Thu lồng hương quế nước in châu

Trường Xuyên



Hòn Yến lâu nay ngỏ ý mời

Dong thuyền lướt song đến xem chơi

Quanh co đường nước xuyên gành đá

Thăm thẳm long hang khuất dạng hơi

Chim trỗi tiếng vàng hoà nhạc biển

Tổ treo giá ngọc rựng sao trời

Cho hay Cù hải giàu sang thật

Ngọc chứa vàng chon khắp mọi nơi

Bạch Vân



CÙ HUÂN VÃN BẠC

Dương phàm nhất lộ quá kỳ xuyên

Trực sử Cù Huân(1) tiểu hạm thuyền

Trấn lãng hải trung tam đảo thạch

Kết mao sơn hạ kỷ thôn yên

Doanh sinh tác nghiệp kiêm tiều điếu

Hạo thuỷ y sa liệt thị yêm

Mãi đắc tân phôi hô chúng ẩm

Khai nhiên cộng tuý tịch dương tiền.

Dịch thơ:

CHIỀU ĐẬU THUYỀN BẾN CÙ HUÂN

Buồm căng phơi phới nẻo kỳ xuyên

Thẳng tới Cù Huân một mảnh thuyền

Đè lớp sóng xô hòn núi dựng

Mờ chân non thẳm khói thôn lên


Đốn củi giăng câu nghề đổi vặt

Cát bồi sóng táp chợ xoay phiên

Rượu mới vừa mua kêu bạn uống

Hoàng hôn đang xuống hãy say mèm.

(1)Cù Huân: cửa biển Nha Trang

NGUYỄN TƯ GIẢN (1823 - 1890)

Tự Tuân Thúc, hiệu Vân Lộc và Thạch Nông. Đỗ tiến sĩ, làm quan ở Nội các, có đi sứ Trung Quốc. Ông nổi tiếng hay thơ.



TỐNG TỶ BỘ NGUYỄN HY PHẦN(1) DỰ CÁO QUY KHÁNH HOÀ Thư kiếm quy triều mấn vị ban

Bệnh trung hương tĩnh vạn trùng san

Tâm đồng Thân Tử y tường khốc

Thân tự Tương Như bổng bích hoàn

Đại Lĩnh văn viên cô nguyệt hạ

Nha Trang xạ hổ loạn vân gian

Khả kham cực mục nam phi nhạn

Chính thị Hoàng hoa bắc xuất quan.

Dịch nghĩa:

THƠ TIỄN ÔNG HY PHẦN Ở BỘ HÌNH

CÁO QUAN TRỞ VỀ KHÁNH HOÀ

Ôm sách cắp gươm về triều khi mái tóc chưa bạc

Trong lúc ốm nhớ cảnh quê hương cách xa muôn dãy núi Lòng không khác Thân Bao Tư dựa tường mà khóc

Thân cũng giống Lạn Tương Như mang ngọc trở về

Đi qua núi Đại Lãnh nghe vượn kêu dưới ánh trăng lạnh

Ở đất Nha Trang bắn cọp trong đám mây lồng

Khốn nỗi đương khi con nhạn bay về phương Nam xa tít

Thì cũng chính đó là lúc ta hát thiên Hoàng Hoa đi ra ải Bắc.




(1)Hy Phần: tên chữ của Nguyễn Thông, bạn thân của tác giả.



NGUYỄN XUÂN ÔN (1825 – 1889)

Hiệu là Ngọc Đường. Tuổi trẻ đã có chí, tư chất thông minh nhưng lận đận vòng trường ốc, mãi 45 tuổi mới đỗ tiến sĩ. Làm Tri phủ Quảng Ninh (Quảng Bình), đốc học Bình Định rồi Án sát Bình Thuận. Vốn người cương trực, yêu nước, có tinh thần chủ chiến, phản đối chính sách hoà nghị của triều đình, nên sau bị cách chức. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông mộ quân chống Pháp tại quê nhà. Bị giặc bắt, đưa về giam lỏng ở Huế, sau lâm bệnh nặng rồi chết ở đó.



QUÁ KHÁNH HOÀ ĐIỂN NÔNG DINH CHI TÁC

Trượng nguyên đồn thượng trước luân cân

Khả thị Long Trung bỉnh trĩ nhân

Cố lý cúc tùng tam kính cổ

Tan dư hoà mạch nhất lê xuân

Tu tri ngưu độc năng thành ấp

Hưu tín sài lang khả tác lân

Tích nhật chẩm qua nhân dĩ lão

Thử gian không hữu bách khuân trần.

Dịch thơ:

LÀM KHI QUA DINH ĐIỂN NÔNG Ở KHÁNH HOÀ Ngưòi quấn khăn xanh trên Ngũ Trượng Phải người cày ruộng đất Long Trung Cúc tùng quê cũ rày trơ luống Ngô lúa đồi hoang đã rợp đồng


Trâu nghé góp nên thôn ấp đẹp

Sói lang đừng để láng giềng chung

Xưa người gối giáo nay già hết

Chỉ thấy còn đây trăm đụn không.




NGUYỄN THÔNG (1827 - 1884)

Tự là Hy Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am. Đỗ cử nhân, làm việc ở Nội các. Khi Pháp đánh Gia Định, ông tình nguyên tòng quân về Namchiến đấu. Sau khi 6 tỉnh Nam Kỳ bị mất, ông lánh ra Bình Thuận, rồi làm Án sát Khánh Hòa, về Kinh làm Biện lý bộ Hình, sau làm Bố chánh Quảng Ngãi. Trong thời gian làm quan, ông có nhiều đóng góp về kinh tế (khai hoang, thuỷ lợi, trồng trọt). Sự nghiệp trước tác của ông rất phong phú, bao gồm nhiều tác phẩm văn học và học thuật.



KHÁNH HOÀ ĐẠO TRUNG

Đồng trụ tồi tàn thập lục triều

Thiên Y(1) cổ tháp ỷ tằng tiêu

Sơn bàn hương thụ chung kỳ khí

Hải phách huyền nham tiết nộ triều

Nhất lộ tùng hoàng kiêu hổ báo

Sổ gia yên hoả tập ngư tiều

Chiêm Hoàn di tích không hồi thủ

Vân lý thê điền trạc thử miêu.



Dịch thơ:

GIỮA ĐƯỜNG QUA TỈNH KHÁNH HOÀ

Cột đồng đổ nát chuyện xưa rồi

Tháp cổ Thiên Y đứng chọc trời

Rải khắp kỳ nam hương lạ đọng

Chém phang vách đá nước triều xuôi

Tung hoành hổ báo tre đầy nẻo

Xen kẽ ngư tiều khói mấy hơi

Dấu cũ vua Hời nhìn ngoảnh lại

Ruộng thang mạ nếp cắm nơi nơi.



(1)Thiên Y: tức Thiên Y A Na Thánh mẫu, cách người Việt gọi nữ thần Pô Na-ga của người Chăm, từ bao đời nay được cả người Chăm lẫn người Việt thờ tại Tháp Bà trên núi Cù Lao bên cửa sông Cái Nha Trang




TRƯƠNG GIA MÔ (1866 - 1929)

Tự Sư Thánh, hiệu Cúc Nông, biệt hiệu là Hoài Huyền Tử, quê ở Bình Dương, Gia Định. Ông trải qua thời niên thiếu ở Bình Thuận khi thân phụ nhậm chức Tuần phủ Thuận Khánh. Năm 1892 ông được bổ dụng làm Thừa phái bộ Công. Sau đó ít lâu ông từ quan, cùng bạn là Nguyễn Lộ Trạch về Nam tính chuyện xuất dương nhưng việc không thành. Những chí sĩ yêu nước như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp từng vào Bình Thuận tiếp xúc với ông. Năm 1908 ông bị giặc bắt giam một thời gian ngắn ở ngục Khánh Hoà vì tham gia phong trào kháng thuế ở Trung kỳ. Từ năm 1910, ông vào Nam ở luôn cho đến cuối đời, liên lạc hoạt động với nhiều nhân sĩ yêu nước. Cuối năm 1929, do những bế tắc cùng cực trong tư tưởng, ông đã lên núi Sam (Châu Đốc) gieo mình tự vẫn.



TOẠ HỆ KHÁNH HOÀ THU DẠ LỮ

LƯƠNG THÚC KỲ TIỂU ẨM KHẨU CHIẾM

Cô thành sơn sắc tứ chu vi

Cổ thác thanh thanh cánh lậu trì

Kỷ nguyệt câu tù dư hạnh phúc

Bán sinh tư tưởng khởi hy kỳ

Nhiệt trường giới tưủ kim nhưng tuý

Đoản mấn phùng thu mộng diệc bi

Mạn hướng giai tiền chiêu tố nguyệt

Viễn thiên nan vấn lập đa thì.



Dịch thơ:

ĐÊM THU NGỒI TÙ KHÁNH HOÀ, NHẮM RƯỢU CÙNG LƯƠNG THÚC KỲ, NHÂN ĐÓ LÀM NHẨM BÀI THƠ NÀY

Thành côi sắc núi tứ chu vi

Tiếng trống sang canh phút kéo trì

Mấy tháng ngồi tù dư hạnh phúc

Nửa đời nghĩ lại cũng là kỳ

Nóng lòng kiêng rượu nay còn uống


Mai ngắn gặp thu mộng lại bi

Ngó khắp sân thềm vời bóng nguyệt

Trời cao khó hỏi ngó như si.



HUỲNH THÚC KHÁNG (1857-1947)

Hiệu Minh Viên, người tỉnh Quảng Nam. Là một trong những nhân vật chủ đạo của phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ, bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo 13 năm. Cách Mạng tháng Tám (1945) thành công, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội Vụ rồi quyền Chủ tịch Chính phủ trong thời gian Hồ Chủ tịch sang Pháp. Ngoài thơ văn đăng trên báo Tiếng Dân do ông chủ trương, ông còn tác phẩm “Thi tù tùng thoại”.



ĐIẾU TRẦN QUÝ CÁP

Thư kiếm tiêu nhiên độc xuất môn

Nhất quan thác lại vị thân tồn

Trực tương tân học khai nô luỹ

Thuỳ tín dân quyền chủng hoạ côn

Bồng Đảo xuân phong huyền viễn mộng

Nha Trang thu thảo khấp anh hồn

Khả liên nhất biệt thành thiên cổ

Đà Nẵng phân khâm tửu thượng ôn.



Dịch thơ:

VIẾNG TRẦN QUÝ CÁP

Gươm sách xăm xăm tách dặm miền

Làm quan vì mẹ há vì tiền

Quyết đem học mới thay nô lệ

Ai biết quyền dân nảy hoạ nguyên

Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng

Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng

Chia tay chén rượu còn đang nóng


Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền.