Chuyên đề: DU LỊCH NHA TRANG BẰNG
THƠ
Thơ khuyết danh
Ai về có nhớ Nha Trang
Nước xanh trong vắt người xinh
mặn mà
Có tôm, có mực, có cua, có hào
Ôi nhắc mà thèm làm sao
Chẳng như Thủ Đức sánh sao mà
bằng
Ở nơi đó có chị Hằng
Mà sao chú Cuội cách hằng trăm
cây.
Ca dao:
Ai về viếng cảnh Khánh Hòa
Long Sơn nên ghé tháp Bà đừng
quên
Kim Thân Phật tổ nhớ lên
Nhìn ông Phật trắng ngồi trên
lưng trời
ĐẶC SẢN NHA TRANG
Yến sào Hòn Nội
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Ba
Nai khô Diên Khánh
Trầm Hương Võ Cạnh
Sò huyết Thùy Triều
Rừng dừa xanh ngát Cam Ranh
Trái sai nước ngọt nên anh quên
về
“Lưỡng ngạn vi lô trường đáo hải
Tứ biên hoàng dịp giục vi thu
Dịch
“Trắng lợp đôi bờ lau tới biển
Vàng bay bốn phía lá gieo thu”
Ca Dao
Ai đứng hòn Chồng
Trông sang Hòn Yến
Lên thăm Tháp Bà
Về viếng Sinh Trung
Non xanh nước biếc chập chùng
Biết bao liệt nữ anh hung em ơi
Em hãy nhận lời
Cùng anh kềt ngãi
Đầu nguồn cuối bãi
Ta hãy nương nhau
Biển Cù nước mãi còn sâu
Công linh chẳng trước thời sau
cũng thành
Đất nắn trời nung khéo định đôi
Hòn Chồng đực cái phối hai ngôi
Ông xây nên đống cây chồi mục
Mây nủi rủ giăng màn tinh túc
Nước khe hầu rót chén giao bôi
Non thề giai lão trơ trơ đó
Gió chẳng lung lay song chẳng bồi
Trần Cao Vân
Cắc cớ cho rồi đấng hóa công
Sinh non Bà lại có non Ông
Xem qua những tưởng hai hòn núi
Hỏi lại thì ra cặp vợ chồng
Nước rẽ khối tình trơ tráo mặt
Tháng ngày đối diện cùng nhau đó
Gang tấc mà ra cách mấy trùng
Bà Tùng Trang
Sóng lặng tâm cù non gởi bong
Thu lồng hương quế nước in châu
Trường Xuyên
Hòn Yến lâu nay ngỏ ý mời
Dong thuyền lướt song đến xem
chơi
Quanh co đường nước xuyên gành đá
Thăm thẳm long hang khuất dạng
hơi
Chim trỗi tiếng vàng hoà nhạc
biển
Tổ treo giá ngọc rựng sao trời
Cho hay Cù hải giàu sang thật
Ngọc chứa vàng chon khắp mọi nơi
Bạch Vân
CÙ HUÂN VÃN BẠC
Dương phàm nhất lộ quá kỳ xuyên
Trực sử Cù Huân(1) tiểu hạm
thuyền
Trấn lãng hải trung tam đảo thạch
Kết mao sơn hạ kỷ thôn yên
Doanh sinh tác nghiệp kiêm tiều
điếu
Hạo thuỷ y sa liệt thị yêm
Mãi đắc tân phôi hô chúng ẩm
Khai nhiên cộng tuý tịch dương
tiền.
Dịch thơ:
Buồm căng phơi phới nẻo kỳ xuyên
Thẳng tới Cù Huân một mảnh thuyền
Đè lớp sóng xô hòn núi dựng
Mờ chân non thẳm khói thôn lên
Đốn củi giăng câu nghề đổi vặt
Cát bồi sóng táp chợ xoay phiên
Rượu mới vừa mua kêu bạn uống
Hoàng hôn đang xuống hãy say mèm.
(1)Cù
Huân: cửa biển Nha Trang
NGUYỄN TƯ
GIẢN (1823 - 1890)
Tự Tuân Thúc, hiệu Vân Lộc và Thạch Nông. Đỗ tiến sĩ, làm quan ở Nội
các, có đi sứ Trung Quốc. Ông nổi tiếng hay thơ.
TỐNG TỶ BỘ NGUYỄN HY PHẦN(1) DỰ CÁO QUY KHÁNH HOÀ Thư kiếm quy triều mấn
vị ban
Bệnh trung hương tĩnh vạn trùng
san
Tâm đồng Thân Tử y tường khốc
Thân tự Tương Như bổng bích hoàn
Đại Lĩnh văn viên cô nguyệt hạ
Nha Trang xạ hổ loạn vân gian
Khả kham cực mục nam phi nhạn
Chính thị Hoàng hoa bắc xuất
quan.
Dịch
nghĩa:
THƠ TIỄN ÔNG HY PHẦN Ở BỘ HÌNH
CÁO QUAN TRỞ VỀ KHÁNH HOÀ
Ôm sách cắp gươm về triều khi mái
tóc chưa bạc
Trong lúc ốm nhớ cảnh quê hương cách xa muôn dãy núi Lòng không khác
Thân Bao Tư dựa tường mà khóc
Đi qua núi Đại Lãnh nghe vượn kêu
dưới ánh trăng lạnh
Ở đất Nha Trang bắn cọp trong đám
mây lồng
Khốn nỗi đương khi con nhạn bay
về phương Nam xa tít
Thì cũng chính đó là lúc ta hát
thiên Hoàng Hoa đi ra ải Bắc.
(1)Hy Phần: tên chữ của Nguyễn
Thông, bạn thân của tác giả.
NGUYỄN XUÂN ÔN (1825 – 1889)
Hiệu là Ngọc Đường. Tuổi trẻ đã có chí, tư chất thông minh nhưng lận đận
vòng trường ốc, mãi 45 tuổi mới đỗ tiến sĩ. Làm Tri phủ Quảng Ninh (Quảng
Bình), đốc học Bình Định rồi Án sát Bình Thuận. Vốn người cương trực, yêu nước,
có tinh thần chủ chiến, phản đối chính sách hoà nghị của triều đình, nên sau bị
cách chức. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương, ông mộ quân chống Pháp tại quê
nhà. Bị giặc bắt, đưa về giam lỏng ở Huế, sau lâm bệnh nặng rồi chết ở đó.
QUÁ KHÁNH HOÀ ĐIỂN NÔNG DINH CHI
TÁC
Trượng nguyên đồn thượng trước
luân cân
Khả thị Long Trung bỉnh trĩ nhân
Cố lý cúc tùng tam kính cổ
Tan dư hoà mạch nhất lê xuân
Tu tri ngưu độc năng thành ấp
Hưu tín sài lang khả tác lân
Tích nhật chẩm qua nhân dĩ lão
Thử gian không hữu bách khuân
trần.
Dịch thơ:
LÀM KHI QUA DINH ĐIỂN NÔNG Ở KHÁNH HOÀ Ngưòi quấn khăn xanh trên Ngũ
Trượng Phải người cày ruộng đất Long Trung Cúc tùng quê cũ rày trơ luống Ngô
lúa đồi hoang đã rợp đồng
Sói lang đừng để láng giềng chung
Xưa người gối giáo nay già hết
Chỉ thấy còn đây trăm đụn không.
NGUYỄN THÔNG (1827 - 1884)
Tự là Hy Phần, hiệu Kỳ Xuyên, biệt hiệu Độn Am. Đỗ cử nhân, làm việc ở Nội
các. Khi Pháp đánh Gia Định, ông tình nguyên tòng quân về Namchiến đấu. Sau khi
6 tỉnh Nam Kỳ bị mất, ông lánh ra Bình Thuận, rồi làm Án sát Khánh Hòa, về Kinh
làm Biện lý bộ Hình, sau làm Bố chánh Quảng Ngãi. Trong thời gian làm quan, ông
có nhiều đóng góp về kinh tế (khai hoang, thuỷ lợi, trồng trọt). Sự nghiệp
trước tác của ông rất phong phú, bao gồm nhiều tác phẩm văn học và học thuật.
KHÁNH HOÀ ĐẠO TRUNG
Đồng trụ tồi tàn thập lục triều
Thiên Y(1) cổ tháp ỷ tằng tiêu
Sơn bàn hương thụ chung kỳ khí
Hải phách huyền nham tiết nộ
triều
Nhất lộ tùng hoàng kiêu hổ báo
Sổ gia yên hoả tập ngư tiều
Chiêm Hoàn di tích không hồi thủ
Vân lý thê điền trạc thử miêu.
Dịch thơ:
GIỮA ĐƯỜNG QUA TỈNH KHÁNH HOÀ
Cột đồng đổ nát chuyện xưa rồi
Tháp cổ Thiên Y đứng chọc trời
Rải khắp kỳ nam hương lạ đọng
Chém phang vách đá nước triều
xuôi
Tung hoành hổ báo tre đầy nẻo
Xen kẽ ngư tiều khói mấy hơi
Ruộng thang mạ nếp cắm nơi nơi.
(1)Thiên Y: tức Thiên Y A Na Thánh mẫu, cách người Việt gọi nữ thần Pô
Na-ga của người Chăm, từ bao đời nay được cả người Chăm lẫn người Việt thờ tại
Tháp Bà trên núi Cù Lao bên cửa sông Cái Nha Trang
TRƯƠNG GIA MÔ (1866 - 1929)
Tự Sư
Thánh, hiệu Cúc Nông, biệt hiệu là Hoài Huyền Tử, quê ở Bình Dương, Gia Định.
Ông trải qua thời niên thiếu ở Bình Thuận khi thân phụ nhậm chức Tuần phủ Thuận
Khánh. Năm 1892 ông được bổ dụng làm Thừa phái bộ Công. Sau đó ít lâu ông từ
quan, cùng bạn là Nguyễn Lộ Trạch về Nam tính chuyện xuất dương nhưng việc không
thành. Những chí sĩ yêu nước như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý
Cáp từng vào Bình Thuận tiếp xúc với ông. Năm 1908 ông bị giặc bắt giam một
thời gian ngắn ở ngục Khánh Hoà vì tham gia phong trào kháng thuế ở Trung kỳ.
Từ năm 1910, ông vào Nam ở luôn cho đến cuối đời, liên lạc hoạt động với nhiều
nhân sĩ yêu nước. Cuối năm 1929, do những bế tắc cùng cực trong tư tưởng, ông
đã lên núi Sam (Châu Đốc) gieo mình tự vẫn.
TOẠ HỆ KHÁNH HOÀ THU DẠ LỮ
LƯƠNG THÚC KỲ TIỂU ẨM KHẨU CHIẾM
Cô thành sơn sắc tứ chu vi
Cổ thác thanh thanh cánh lậu trì
Kỷ nguyệt câu tù dư hạnh phúc
Bán sinh tư tưởng khởi hy kỳ
Nhiệt trường giới tưủ kim nhưng
tuý
Đoản mấn phùng thu mộng diệc bi
Mạn hướng giai tiền chiêu tố
nguyệt
Viễn thiên nan vấn lập đa thì.
Dịch thơ:
ĐÊM THU NGỒI TÙ KHÁNH HOÀ, NHẮM RƯỢU CÙNG LƯƠNG THÚC KỲ, NHÂN ĐÓ LÀM
NHẨM BÀI THƠ NÀY
Tiếng trống sang canh phút kéo
trì
Mấy tháng ngồi tù dư hạnh phúc
Nửa đời nghĩ lại cũng là kỳ
Nóng lòng kiêng rượu nay còn uống
Mai ngắn gặp thu mộng lại bi
Ngó khắp sân thềm vời bóng nguyệt
Trời cao khó hỏi ngó như si.
HUỲNH THÚC KHÁNG (1857-1947)
Hiệu Minh Viên, người tỉnh Quảng Nam. Là một trong những nhân vật chủ
đạo của phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ, bị Pháp bắt đày đi Côn Đảo 13 năm. Cách
Mạng tháng Tám (1945) thành công, ông được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội Vụ rồi quyền
Chủ tịch Chính phủ trong thời gian Hồ Chủ tịch sang Pháp. Ngoài thơ văn đăng
trên báo Tiếng Dân do ông chủ trương, ông còn tác phẩm “Thi tù tùng thoại”.
ĐIẾU TRẦN QUÝ CÁP
Thư kiếm tiêu nhiên độc xuất môn
Nhất quan thác lại vị thân tồn
Trực tương tân học khai nô luỹ
Thuỳ tín dân quyền chủng hoạ côn
Bồng Đảo xuân phong huyền viễn
mộng
Nha Trang thu thảo khấp anh hồn
Khả liên nhất biệt thành thiên cổ
Đà Nẵng phân khâm tửu thượng ôn.
Dịch thơ:
VIẾNG TRẦN QUÝ CÁP
Gươm sách xăm xăm tách dặm miền
Làm quan vì mẹ há vì tiền
Ai biết quyền dân nảy hoạ nguyên
Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng
Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng
Chia tay chén rượu còn đang nóng
Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống
thuyền.