Phú Quốc được chia thành 8 xã, 2 thị trấn là: Thị trấn Dương Đông, Thị trấn An Thới, Xã Dương Tơ, Xã Cửa Cạn, Xã Gành Dầu, Xã Cửa Dương, Xã Bãi Thơm, Xã Hòn Thơm, Xã Hàm Ninh, Xã Thổ Châu
Bãi biển phía nam Phú Quốc
Phú Quốc hay còn được mệnh danh là Đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất của Việt Nam, cũng là đảo lớn nhất trong quần thể 22 đảo tại đây, nằm trong vịnh Thái Lan. Đảo Phú Quốc cùng với các đảo khác tạo thành huyện đảo Phú Quốc trực thuộc tỉnh Kiên Giang. Toàn bộ huyện đảo có tổng diện tích 589,23 km² (theo thống kê số liệu đất năm 2005), xấp xỉ diện tích đảo quốc Singapore. Thị trấn Dương Đông, tọa lạc ở phía tây bắc, là thủ phủ của huyện đảo. Phú Quốc nằm cách thành phố Rạch Giá 120 km và cách thị xã Hà Tiên 45 km.
* VỊ TRÍ ĐỊA LÝ
Đảo Phú Quốc nằm trong vịnh Thái Lan, phía tây nam của Việt Nam, Phú Quốc trải dài từ vĩ độ: 9°53′ đến 10°28′độ vĩ bắc và kinh độ: 103°49′đến 104°05′độ kinh đông.
* ĐỊA HÌNH
Vùng biển Phú Quốc có 22 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó đảo Phú Quốc lớn nhất có diện tích 567 km² (56.700 hecta), dài 49 km, nơi rộng nhất (ở phía bắc đảo) 25 km, nơi hẹp nhất (ở phía nam đảo) 3km. Điểm cao nhất tới 603 m (núi Chúa). Địa hình thiên nhiên thoai thoải chạy từ bắc xuống nam với 99 ngọn núi đồi. Phần các vùng biển quanh đảo nông có độ sâu chưa đến 10 m. Tuy nhiên, cụm đảo nhỏ của cảng An Thới bị ngăn cách hẳn với phần mũi phía nam của đảo Phú Quốc bởi một eo biển có độ sâu tới hơn 60 m.
* LỊCH SỬ
Năm 1671, một người Hoa tên Mạc Cửu (Mạc Kính Cửu), quê ở Lôi Châu tỉnh Quảng Đông, mang cả gia đình, binh sĩ và một số sĩ phu khoảng 400 người lên thuyền rời khỏi Phúc Kiến. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, phái đoàn Mạc Cửu đổ bộ lên một vùng đất hoang trong vịnh Thái Lan. Sau khi dò hỏi và biết vùng đất này thuộc ảnh hưởng Chân Lạp, phái đoàn liền tìm đường đến Oudong xin tị nạn, nhưng lúc đó nội bộ Chân Lạp có loạn. Mạc Cửu gặp Nặc Ông Thu (Ang Sur, Jayajettha III) và ở lại hợp tác cho đến năm 1681.
1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau. Hà Tiên trở thành thương cảng quan trọng, thôn ấp định cư nằm sát mé biển, thuận tiện cho ghe thuyền tới lui, hoặc ở đất cao theo Giang thành, sông Cái Lớn, sông Gành Hào, Ông Đốc để canh tác.
Ông lập ra 7 sòng bạc dọc bờ biển: Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột (Kampot), Hương Úc (Kompong Som), Sài Mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Mán Khảm (cảng của người Mán, tức người Khmer), sau đổi thành Căn Khẩu (Căn Kháo hay Căn Cáo). Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn vinh với tên gọi mới: Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành Phú Quốc (vùng đất giàu có).
Năm 1708, Mạc Cửu liên lạc được với Chúa Quốc Nguyễn Phúc Chu. Năm 1714, Mạc Cửu xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn và được phong chức tổng binh cai trị đất Căn Khẩu. Năm 1724, Mạc Cửu dâng luôn toàn bộ đất đai và được phong làm đô đốc cai trị lãnh thổ Căn Khẩu, đổi tên thành Long Hồ dinh. Từ 1729, Long Hồ dinh nổi tiếng là vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan. Năm 1735, Mạc Cửu mất, con là Mạc Sĩ Lân, sau đổi thành Mạc Thiên Tứ, được phong làm đô đốc, kế nghiệp cha cai trị Long Hồ dinh. Gia đình họ Mạc được Ninh vương Nguyễn Phúc Trú nâng lên hàng vương tôn. Long Hồ dinh đổi tên thành Hà Tiên trấn. Năm 1739, Mạc Thiên Tứ lập thêm bốn huyện: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (bắc Bạc Liêu).
Năm 1755, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm Bôn (Cần Thơ) và Lôi Lập (Long Xuyên) để được về Nam Vang cai trị. Năm 1758, chúa Nguyễn đưa Nặc Tôn (Ang Ton II) lên làm vua và được tặng thêm lãnh thổ Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc). Nặc Tôn tặng riêng Mạc Thiên Tứ lãnh thổ 5 phủ miền Đông-Nam Chân Lạp: Hương Úc (Kompong Som), Cần Bột (Kampot), Trực Sâm (Chưng Rừm), Sài Mạt (Cheal Meas) và Linh Quỳnh (vùng duyên hải từ xã Sré Ambel đến làng Peam), nói chung là toàn bộ vùng biển ven duyên quanh đảo Phú Quốc, Mạc Thiên Tứ dâng hết cho Võ vương Nguyễn Phúc Khoát. Võ vương sát nhập tất cả các vùng đất mới vào trấn Hà Tiên, giao cho Mạc Thiên Tứ cai trị.
* DÂN CƯ
Trước năm 1975 dân số trên đảo chỉ hơn 5000 người. Sau năm 1975, dân số trên đảo tăng lên nhanh chóng do hiện tượng di dân. Đến năm 2003, theo thống kê của tỉnh Kiên Giang dân cư sinh sống trên đảo đã lên đến trên 79.800 người, với mật độ trung bình là 135 người/km², thấp hơn mật độ trung bình của cả nước 253 người/km².
* VĂN HÓA, TÔN GIÁO
Ở đảo Phú Quốc, vào ngày rằm tháng 7 âm lịch người dân thường đi chùa tại thị trấn Dương Đông. Vào ngày này sinh hoạt tôn giáo diễn ra khá nhộn nhịp. Phú Quốc được xem là nơi phát tích của đạo Cao Đài. Ngày nay trên đảo có một thánh thất Cao Đài ở thị trấn Dương Đông.
Phú Quốc này trước đây có một số nhà nguyện, nhà thờ: Khoảng năm 1930, một số giáo dân miền bắc vào đảo này làm đồn điền cao su ở gần Bãi Khem. Hai linh mục người Malaysia là cha Albe1za và Merdrignac đã cho xây một nhà nguyện tạm bằng lá để làm nơi cầu nguyện,lễ lạc. Việc trồng cao su thất bại nên một số lớn dân chúng vào đất liền chỉ còn lại ít dân nhà nguyện dần dần bị bỏ hoang.
Năm 1955, một linh mục cho xây nhà thờ ở thị trấn Dương Đông. Sau năm 1975, người ta bỏ đi, nhà thờ này lại bỏ trống, hiện nay được Nhà Nước quản lý. Khoảng thời gian gần đây, số giáo dân ở Dương Đông ngày càng nhiều và có nhu cầu sinh hoạt tôn giáo, thế là mọi người tụ tập tại một nhà người dân có vườn rộng để cùng dâng lễ; cha xứ và hai cha phó thay phiên nhau đến đây hằng tuần, đáp ứng nhu cầu tâm linh.
Nhà thờ An Thới được thành lập vào năm 1957, khi đó có 1.000 giáo dân quê quán ở Nghệ An vào đảo sinh sống. Cùng ra đảo với bà con có cha Giuse Trần Đình Lữ; từ đó, nhiều linh mục và thầy giảng đã được Đức Cha giáo phận Long Xuyên sai đến để phục vụ. Hiện nay, cha Gioan Trần Văn Trông là chính xứ với hai cha phó trẻ giúp mục vụ là cha Hải Đăng và cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Cảnh. Với số giáo dân là 2.000 người,
* KHÍ HẬU – THỦY VĂN
Do vị trí đặc điểm của Đảo Phú Quốc nằm ở vĩ độ thấp lại lọt sâu vào vùng vịnh Thái Lan, xung quanh biển bao bọc nên thời tiết mát mẻ mang tính nhiệt đới gió mùa. Khí hậu chia hai mùa rõ rệt, mùa khô bắt đầu từ tháng 11 âm lịch đến tháng 4 âm lịch năm sau và mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 âm lịch đến tháng 10 âm lịch năm sau. Mùa khô: Đảo Phú Quốc chịu ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc có cường độ tương đối mạnh, tốc độ gió trung bình 3,2 m/s. Khi gió Đông Bắc mạnh, tốc độ đạt từ 20 đến 24 m/s. Mùa khô có độ ẩm trung bình 78%. Nhiệt độ cao nhất 35 độ C vào tháng 4 và tháng 5. Nhiệt độ trung bình khoảng 27 – 28 độ C. Mùa mưa: Đảo Phú Quốc là cửa ngõ đón gió mùa Tây – Tây Nam, tốc độ gió trung bình 4,5 m/s. Mùa mưa mây nhiều, độ ẩm cao, từ 85 đến 90%. Lượng mưa trung bình là 414 mm/tháng. (Cả năm trung bình là 3000 mm). Trong khu vực Bắc đảo có thể đạt 4000 mm/năm; có tháng mưa kéo dài 20 ngày liên tục.
HỒ TIÊU PHÚ QUỐC
Hồ tiêu Phú Quốc có vị thơm và cay nồng, và đặc biệt là đậm vị hơn nhiều loại hồ tiêu đến từ những vùng miền khác, trong đó phải kể đến tiêu đỏ (tiêu chín). Tiêu được người dân Phú Quốc thu hoạch từng đợt chín và chủ yếu là bằng thủ công, chọn lựa những quả chín phơi riêng gọi là tiêu chín (tiêu đỏ), những quả còn xanh sau khi phơi khô được gọi là tiêu cội (tiêu đen). Do nhu cầu của thị trường, người dân đã dùng tiêu đen tẩy bỏ vỏ chỉ còn lại phần lõi hạt gọi là tiêu sọ. trong các loại tiêu thì tiêu chín là ngon nhất và đắt tiền nhất.
Giới thiệu cây tiêu Phú Quốc
Cây tiêu Phú Quốc
Một đặc tính canh tác nữa là hàng năm người trồng tiêu thường lấy những vùng đất mới xung quanh vườn bón xung quanh gốc cây (còn gọi là “đất xây thầu”). Cây nọc (choái) chủ yếu là lấy từ lõi của các loại cây quí như ổi rừng, kiềng kiềng, trai, chay, săn đá,… Phân bón chủ yếu là phân bò, phân cá, xác mắm (phần xác cá cơm bị loại bỏ sau khi hoàn tất quy trình sản xuất nước mắm).
Hom giống chủ yếu trồng từ hom thân nên giá thành rất cao. Trung bình để trồng xong một hecta từ 300 – 400 triệu/hecta nên ít có nông dân đủ tiền trồng một lần đủ diện tích lớn mà phải trồng từ từ nhiều năm, nên một vườn tiêu ở Phú Quốc thường là có nhiều tuổi khác nhau.
Cây Hồ tiêu được trồng ở Phú Quốc hàng trăm năm. Với diện tích trung bình là 471 hecta tập trung ở 3 xã Cửa Dương, Cửa Cạn và Dương Tơ. Thời điểm diện tích lớn nhất là vào những năm 1995-2000 là hơn 1000 hecta. Đây là thời điểm giá tiêu cao nhất (100 – 120.000 đồng/kg tương đương 30 – 40 kg gạo) người trồng tiêu có lời từ 200 – 300 triệu/hecta (thời điểm năm 1995 – 2000)
Giống trồng chủ yếu là 2 giống Hà Tiên và Phú Quốc (hồ tiêu lá lớn và hồ tiêu lá nhỏ). Hai nhóm giống này có thới gian thu hoạch gần tương đương nhau từ tháng 11 âm lịch kéo dài hết tháng 2 âm lịch. Giống Hà Tiên có năng suất cao hơn nhóm Phú Quốc nhưng tuổi thọ và kháng sâu bệnh kém hơn.
Năng suất tiêu ở Phú Quốc trung bình là 2000 – 3000kg/hecta, mật độ trồng từ 2500 – 3000 nọc/hecta.
ĐẶC SẢN
Nước mắm Phú Quốc, Còi biên mai, Chó Phú Quốc, Tiêu Phú Quốc, Cá khô Thiều, Rượu Sim, Nấm Tràm, Rượu Mỏ quạ, Rượu Hải mã, Ngọc trai biển, Cá bớp, Điều Phú Quốc, Cá Trích
DANH LAM – THẮNG CẢNH – DU LỊCH
Phú Quốc được xác định là trung tâm du lịch sinh thái và trung tâm giao thương tầm cỡ khu vực và quốc tế. Tại đây có nhiều thắng cảnh đẹp như:
Vườn quốc gia Phú Quốc, Khu bảo tồn biển Phú Quốc, Dinh Cậu, An Thới, Bãi Khem / Kem, Nhà Lao Cây Dừa, Mũi Ông Đội, Bãi Vịnh Đầm, Bãi Sao, Bãi Xếp Lớn, Bãi Xếp Nhỏ, Núi Cô Chín, Núi Radar, Bãi Đất Đỏ, Quần đảo An Thới , Hòn Thơm, Hòn Dừa, Hòn Rỏi, Hòn Đụn, Hòn Gầm Ghì, Hòn Mây Rút, Hòn Kim Qui, Hòn Dăm, Hòn Xưởng, Dương Đông, Suối Đá Bàn, Dinh Cậu, Bãi Trường, Rạch Tràm, Rạch Vẹm, Bắc Đảo, Bãi Thơm, Gành Dầu, Bãi Dài, Làng chài Hàm Ninh, Bãi Vòng, Suối Tranh
Phú Quốc là hòn đảo lớn nhất Việt Nam, nằm trong Vịnh Thái Lan, thuộc tỉnh Kiên giang. Vị trí địa lý của đảo được tóm tắt để dễ hình dung như sau: mũi Đông Bắc của đảo cách quốc gia láng giềng Cam-Pu-Chia 4 hải lý. Đảo cách thành phố Rạch Giá, thủ phủ của tỉnh Kiên Giang 62 hải lý về phía Đông và cách thị xã Hà Tiên là 25 hải lý.
Bờ biển Phú Quốc
Đến Phú Quốc, du khách sẽ khám phá những biển tuyệt đẹp với cát vàng rực rỡ ở bãi Dài, cát trắng lấp lánh tại bãi Sao, và được hòa mình vào không khí trong lành do những làn gió mát rượi từ biển khơi thổi vào. Biển Phú Quốc, với làn nước xanh trong màu ngọc bích mát rượi sẽ mang đến những giây phút thư giãn, bình yên.
Còn những vị khách thích cảm giác phiêu lưu mạo hiểm sẽ có cơ hội lặn xuống đại dương, ngắm nhìn những rặng san hô rực rỡ sắc màu. Khi màn đêm buông xuống, toàn hòn đảo chìm trong bóng tối, là lúc mặt biển lấp lánh những đốm sáng lung linh do những chiếc đèn vàng từ các thuyền câu cá biển, thẻ mực đêm ngoài khơi xa hắt vào.
Tắm suối, leo núi tại suối Tranh, tắm biển, tham quan Nhà Thùng, trại nuôi chó xoáy lưng… là những điểm đến tiếp theo của hành trình khám phá Phú Quốc.
Nằm sâu trong rừng nguyên sinh, suối Tranh là tập hợp của nhiều dòng nhỏ, chảy từ khe núi, len lỏi qua những bãi có xanh mượt, rồi nhập vào dòng chính. Với làn nước trong và mát lạnh, dòng suối dài 16km này luôn được du khách lựa chọn làm nơi câu cá, nghỉ ngơi, thư giãn bên hai bờ dưới bóng mát của rừng cây bạt ngàn.
Đến Phú Quốc, du khách cũng không thể bỏ qua cơ hội tìm hiểu, khám phá các làng nghề truyền thống của người dân bản địa như làm nước mắm, trồng hồ tiêu, nuôi cấy ngọc trai. Du khách sẽ tận mắt chứng kiến quy trình sản xuất nước mắm Phú Quốc – loại đặc sản nổi tiếng trong, ngoài nước và được người dân bản địa hướng dẫn cách trồng hồ tiêu có vị cay thơm đặc biệt, riêng có của nơi này…
Còn làng chài Hàm Ninh sẽ giúp du khách hiểu rõ hơn đời sống của người dân miền biển khi được tận mắt chứng kiến, quan sát ngư ông tung lưới bắt cá hay thưởng thức những món hải sản tươi sống và mua sắm đặc sản tại chơ Dương Đông.
Quay về trung tâm huyện đảo, những di tích mang đậm dấu ấn thời gian như Dinh Cậu – có lối kiến trúc cổ do người dân xây dựng từ năm 1973 để cầu bình yên cho thuyền bè, và chùa cổ Sùng Hưng, nhà tù Phú Quốc, khu căn cứ người anh hùng Nguyễn Trung Trực sẽ mang đến cho du khách những khám phá mới về lịch sử.
THỊ TRẤN DƯƠNG ĐÔNG:
Thị trấn Dương Đông là huyện lỵ, trung tâm hành chính của huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Dương Đông có nhiều cảnh đẹp, nhưng nổi tiếng nhất là bãi biển Trường. Ngoài ra còn có nhiều di tích lịch sử văn hoá như đình Dương Đông, chùa Cao, chùa Sùng Hưng, miếu Dinh Cậu.
Từ Dinh Cậu du khách có thể thưởng ngoạn cảnh hoàng hôn trên biển, một bức tranh tuyệt đẹp hiếm nơi nào có được. Mặt trời xuống thấp trên bãi Dương Đông, những tia nắng dường như càng thêm vàng lung linh trên những con sóng bạc ào ạt xô bờ. Khi nắng dần tắt, bãi tắm vắng dần, cũng là lúc những chiếc thuyền câu mực thắp lên những ngọn đèn giăng kín một khung trời trông cứ như một thành phố nổi trên mặt biển.
Du khách đến thăm Dương Đông, vừa chiêm ngưỡng cảnh đẹp vừa tận mắt nhìn thấy nhịp sống đổi thay của phố huyện xa xôi này. Trên bến tàu An Thới ghe thuyền ra vào tấp nập, các khu chợ trung tâm thị trấn luôn sầm uất, nhộn nhịp người buôn kẻ bán. Tại các khu chợ này, du khách tha hồ lựa chọn các mặt hàng mắm, tiêu, hải sản tươi hoặc khô nổi tiếng của Phú Quốc.
Sông Dương Đông
Người ta kể rằng, vùng đất này trước kia là một ngôi làng cổ, chung quanh dương mọc thành rừng, chỉ lưa thưa vài ngôi nhà nhỏ, vì thế mới có tên gọi như vậy. Dưới triều Minh Mạng, Dương Đông là thôn thuộc tổng Phú Quốc, huyện Hà Châu, phủ An Biên, tỉnh Hà Tiên. Trải qua triều Thiệu Trị, Tự Đức, đến đầu thời Pháp thuộc, Dương Đông được đặt thuộc hạt Rạch Giá, rồi lại thuộc hạt Hà Tiên. Từ ngày 25-05-1874, Dương Đông thuộc hạt Phú Quốc. Từ ngày 16-06-1875, Dương Đông trở thành làng thuộc hạt Hà Tiên. Từ ngày 12-08-1888, đổi thuộc hạt tham biện Châu Đốc. Từ ngày 01-01-1900, thuộc tỉnh Hà Tiên. Ngày 04-10-1912, sáp nhập thêm hai làng An Thới, Lạc Phú vào làng Dương Đông. Những năm 1930, Dương Đông thuộc quận Phú Quốc, tỉnh Hà Tiên. Sau năm 1956, Dương Đông là xã thuộc quận Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Sau 30-04-1975, Dương Đông trở thành thị trấn huyện lỵ huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Thị trấn Dương Đông khá nhỏ bé, đường phố vắng vẻ, đan xen những ngôi nhà cao tầng là một vài nếp nhà khung gỗ, lợp ngói âm dương thường thấy ở vùng cao Hà Giang, Cao Bằng. Bên cạnh sự thong thả của bước chân du khách, là sự hối hả của những tà áo trắng đạp xe tan trường, những chiếc xe máy chạy vội phụt khói mù mịt…Cư dân trên đảo là sự pha trộn của người Việt, người Hoa và người Khmer. Có người tổ tiên đến đây từ hàng trăm năm trước, có người mới đến lập nghiệp mấy chục năm nay, tất cả tạo nên sự phong phú về văn hoá và lối sống. Bởi vậy, đan xen những ngôi nhà cao tầng hiện đại, lẩn khuất đâu đó là từ đường của người Việt, hội quán của người Hoa và chùa Miên của người Khmer.
Ngày nay, thị trấn Dương Đông là nơi thu hút đầu tư lớn nhất đảo. Các dự án đã và đang thực hiện như: quy hoạch tổng quát thị trấn Dương Đông, sân bay quốc tế Phú Quốc, khu đô thị Đông sân bay, sân vận động Phú Quốc, xây dựng mới nhiều tuyến đường nội thị, hệ thống trường học, khu du lịch sinh thái biển….
SÙNG HƯNG CỔ TỰ
Sùng Hưng Cổ Tự là ngôi chùa cổ hiếm hoi tọa lạc tại thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Hiện nay, chùa là một trong những điểm tham quan không thể thiếu trong các tour du lịch đến đảo Phú Quốc. Chùa được xây vào những năm đầu của thế kỷ XX. Vùng đất này trước đây là nghĩa địa hoang vắng. Nhân dân đã lập nên hai ngôi chùa là Sùng Nghĩa và Hưng Nhân để làm nơi thờ cúng và cầu siêu cho những linh hồn. Về sau hợp nhất hai chùa lại và lấy tên Sùng Hưng. Chùa Sùng Hưng được nhắc đến trong một quyển sách chuyên khảo về Phú Quốc bằng Pháp văn (năm 1906) như sau: “Phú Quốc chỉ có một ngôi chùa ở Dương Đông, nơi đây người An Nam, người tàu, người Minh Hương không phân biệt, đến cúi lạy và cầu nguyện”.

* LỊCH SỬ
Đến nay người ta vẫn chưa biết được chính xác năm thành lập cũng như lai lịch của những người sáng lập và trụ trì đầu tiên của chùa. Chỉ biết rằng đời trụ trì thứ 5 và thứ 6 là các hoà thượng Thích Đạt Vĩnh và Thích Minh Khiêm đồng thuộc dòng Lâm tế Chánh tông đời thứ 39. Đến năm 1910, hoà thượng Minh Khiêm viên tịch, kế vị trụ trì là hoà thượng Thích Tịnh Nghĩa (thế danh Nguyễn Công Đại) cũng thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 39.
Năm 1922, hoà thượng Tịnh Nghĩa viên tịch, bảo tháp của ngài được tôn tạo trong khuôn viên chùa Sùng Hưng. Kế vị trụ trì là hoà thượng Thích Huệ Chánh (thế danh Đinh Văn Dần). Hoà thượng Huệ Chánh sinh năm 1909 tại Tân Châu (nay thuộc tỉnh An Giang). Năm 7 tuổi, ngài xuất gia tại chùa Quan Âm (Châu Đốc) với hoà thượng Thích Tịnh Nghĩa và năm sau, theo thầy về tu học tại chùa Sùng Hưng. Năm 1924, sau khi kế vị trụ trì chùa Sùng Hưng, thầy Huệ Chánh cho trùng tu các công trình Phật sự trong chùa với mái lợp ngói âm dương và tường gạch. Hiện nay, do tuổi cao sức yếu, hoà thượng Huệ Chánh giao quyền quản lý và trông lo việc Phật sự của chùa Sùng Hưng cho yết ma Huệ Thông (thế danh Đinh Thành Hổ) thuộc dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 41. Yết ma Huệ Thông sinh năm 1950 tại Phú Quốc. Năm 8 tuổi, thầy xuất gia tại chùa Sùng Hưng và thọ giới vào năm 1965. Sau đó, cầu pháp nhập Hạ với hoà thượng Bửu Ngươn, kế tiếp với hoà thượng Bửu Nguyên (chùa Sắc Tứ Thập Phương, thành phố Rạch Giá) và hoà thượng Chí Đạt.
Chùa nằm trên một ngọn núi gần trung tâm thị trấn. Cổng chùa quay về hướng Bắc, kiến trúc cổ kính, cao dần theo từng bậc thang, xung quanh cây cổ thụ xanh tươi, tường rào bao bọc. Bên ngoài là cổng Tam quan lợp ngói hình lượn sóng và trang trí phù điêu lưỡng long tranh châu. Bên trên có bản đề tên chùa bằng chữ Hán và chữ quốc ngữ: Sùng Hưng cổ tự. Cổng tam quan có đôi câu đối, nội dung như sau:
“Sùng đức tu thân hòa chủng Bồ Đề huệ phát chơn tông hoằng Phật pháp
Hưng nhơn dưỡng tánh thượng sanh Bát Nhã chánh khai tâm lý diễn thiền môn”
Giữa sân chùa có tượng Quan Âm lộ thiên đứng trên hồ nước. Tiếp tục lần theo gần chục nấc thang nữa là khoảng sân rộng lớn khác có ao sen. Ngay bậc thang này, bắt gặp một cổng nữa, cổng được xây dựng bằng bốn cột gỗ trai, lợp ngói tàu kiểu cổ điển, vòm uốn cong. Hai con lân ngồi chễm chệ hai bên trông thật oai phong. Được biết hai con lân do một người hảo tâm tên Lâm Vũ Sanh cúng biếu cách đây gần thế kỷ. Phía sau cổng là chánh điện, được cất trên nền đá cao gần hai mét. Hai bên chánh điện là hay dãy nhà tường vôi, lợp ngói nằm dọc, để du khách lưu trú. Chánh điện được bày trí tôn nghiêm với nhiều pho tượng bằng gỗ, đồng và thạch cao được điêu khắc rất tinh xảo. Ngoài ra còn có một quả Đại Hồng Chung và hệ thống hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng lộng lẫy. Điện thờ trung tâm được bố trí theo ba tầng bậc. Tầng trên hết thờ Tam Thế Phật: Tượng A Di Đà ngồi giữa, tượng Đại Thế Chí đứng bên phải, tượng Quan Thế Âm đứng bên trái. Kế đến là tầng hai và tầng ba. Phía sau là bàn thờ được trang trí bằng một tuyệt tác rồng lượn của họa sĩ Cao Sành. Rải rác đó đây trên vách trong chánh điện là những cảnh thuật lại bước đường Tây Du của Thầy trò Đường Tăng trông thật sống động.
Phía sau chánh điện, có hai con đường nam tả nữ hữu, gồm nhiều bậc thang dẫn lên chùa trên. Ở đây cũng thờ Tam Thế Phật, nhưng chỉ một bậc, tượng Phật cao lớn hơn nhiều. Cảnh trí trên này mát mẻ bởi cây cổ thụ dày đặc. Trước sân chùa, cây lão tùng cao vút, đứng trầm mặc. Cạnh đó là toàn cảnh Đức Phật Thích Ca đang nhập Niết bàn dưới gốc cây bồ đề đại thụ tạo cảm giác siêu thoát.
LÀNG CHÀI HÀM NINH
Xã Hàm Ninh nằm trên bờ biển phía Ðông đảo, sau lưng là núi rừng, trước mặt là biển cả mênh mông. Dân cư tập trung ven bờ rạch Hàm.
Ðến Hàm Ninh như người hoài cổ trở lại làng xưa. Cuộc sống ở đây gần như còn giữ nguyên vẻ hoang sơ với nhà tranh vách tre tạm bợ. Nghề chính vẫn là nghề lặn ngọc trai, bắt hải sâm (đồn đột) và giăng lưới ghẹ.
Ngày xưa, ngư dân đến đây đánh bắt hải sản rồi lập làng. Khi cửa biển Dương Ðông vang tiếng sóng thì Hàm Ninh là bến đậu ghe yên tĩnh và an toàn. Các ghe buồm, ghe bầu từ đất liền đến cập bến ở đây lên hàng hóa rồi chở hải sản đi. Biển Hàm Ninh ra xa vài trăm thước mà vẫn còn cạn. Khi nước ròng, bãi cát mênh mông chạy tít ra xa, lúc nước lên, tràn ngập bãi, vào tận mé rừng. Ðứng trên bãi Hàm Ninh, các hòn thuộc quần đảo Hải Tặc (của Hà Tiên) ló dạng xa xa. Chệch về Ðông Nam, hòn Nghệ mờ mờ trên làn nước biếc. Phía Nam là mũi ông Ðội – mũi đất cuối cùng của đảo.
Thăm Hàm Ninh vào sáng sớm hay những đêm trăng thì mới hưởng hết vẻ đẹp của biển này. Tại đây du khách sẽ được thưởng thức cảnh nhật nguyệt trôi bồng bềnh trên mặt biển.
Ðến đây mà chưa thưởng thức ghẹ luộc thì coi như chưa trọn vẹn. Ghẹ là đặc sản vùng này, gần như lúc nào cũng có. Những con ghẹ vừa bắt lên đem luộc, màu đỏ tươi, thịt chắc nịt, chấm muối tiêu chanh thì ngọt biết chừng nào! Rời Hàm Ninh, du khách cũng đừng quên mang về vài mươi con ghẹ để tối đến cùng bạn bè nhấm nháp.
SUỐI TRANH:
Nằm ở phía Đông Bắc đảo Phú Quốc, có dãy Hàm Ninh xanh thẳm, từ trong khe núi, nhiều dòng suối nhỏ len lỏi qua rừng cây, gộp đá để rồi hoà mình vào dòng chính tạo nên dòng Suối Tranh chảy hiền hoà. Có đoạn suối chảy qua các ghềnh đá tạo nên những con thác nhỏ với làn nước mềm mại, trắng xoá trong màu xanh mượt mà của cỏ cây hoa lá… Khung cảnh tựa như bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp (người ta gọi là Suối Tranh).
Đến với điểm du lịch sinh thái này, du khách có thể tắm suối, đắm mình ở những bờ biển trong vắt, mát lạnh; ngả mình trên những tảng đá bằng phẳng nghe tiếng suối chảy róc rách, tiếng chim kêu trong bầu không khí thoảng hương hoa rừng bên suối. Khách du lịch có thể cắm trại, câu và nướng cá, thưởng thức tại chỗ rất thú vị.
Ở gần suối Tranh còn có nhiều hang động huyền hoặc, kỳ bí. Hang Dơi nằm trên núi cao chừng 200 m, sâu đến 50 m, có nhiều thạch nhũ đẹp.
DINH CẬU:
Nằm trên đỉnh ghềnh đá thiên tạo, được bàn tay tài hoa của tạo hoá tạc, đẽo thành nhiều tuyệt tác tạo hình, vì vậy Dinh Cậu không chỉ hấp dẫn du khách bằng những câu chuyện lung linh sắc màu huyền hoặc từ truyền thuyết xa xưa, mà còn hấp dẫn khách phương xa bởi vẻ đẹp kỳ thú từ những thớ đá sống động.
Dinh Cậu ở Phú Quốc.jpg
Dinh Cậu còn có tên gọi là Miếu thờ Long Vương, tọa lạc trên một ghềnh đá vươn ra biển, bên cửa sông Dương Đông thuộc thị trấn Dương Đông
Ra đời vào khoảng thế kỷ XVII, nằm cách thị trấn Dương Đông 200m về phía Tây, Dinh Cậu toạ lạc trên ghềnh đá quay mặt ra biển quanh năm sóng vỗ, gió táp và nắng tràn, chính vì thế tuy chỉ là mũi đá nhỏ ở cửa sông Dương Đông, nhưng nơi đây được ví như biểu tượng của “Đảo ngọc Phú Quốc” bởi sự hoà trộn hài hoà giữa biển xanh – cát trắng – nắng, gió và đá.
Đá ở đây không chỉ là một cảnh vật đẹp, mà với những hình thù kỳ quái, còn tạo ra sức mê hoặc thiêng liêng, cổ kính khó đâu có được. Bởi ở đó ta không chỉ bắt gặp hình ảnh sống động của những con vật có thật giữa đời thường, như chú lợn rừng chuẩn bị bước vào cuộc chiến một mất một còn, con rùa biển đang lao mình về với đại dương bao la, hay con cá sấu đang lim dim phơi mình giữa biển gió để thưởng thức tiếng hát từ trùng khơi vọng về, mà còn có hình ảnh của nhiều linh vật từ trong truyền thuyết bước ra, như: rồng biển táp sóng, giao long gọi gió… Vì vậy, ai lỡ một lần lạc bước đến đây chắc chắn sẽ sớm quay trở lại để thêm một lần chiêm ngưỡng… một Dinh Cậu kỳ thú!
Thiên nhiên đã tạo nên những múi đá kỳ lạ để người dân nơi đây dựng lên Dinh Cậu, hương khói quanh năm. Mũi đá Dinh Cậu cuốn hút du khách không chỉ bởi vẻ kỳ thú do thiên nhiên ban tặng, mà còn vì sự huyền bí, linh thiêng qua những truyền thuyết xa xưa.
Chuyện kể rằng người dân Phú Quốc sống bằng nghề chài lưới, nhiều ngư dân ra khơi gặp sóng dữ đã mãi mãi không về. Đột nhiên một mõm đá dần dần nổi lên nơi cửa biển, người dân cho rằng đây là điềm tốt nên đến đây thờ cúng và quả nhiên chuyến đi gặp được sóng êm biển lặng. Tin lành đồn xa, dần dần hình thành nên tục thờ cúng tại mỏm đá này và đặt tên là DINH CẬU.
Dinh Cậu còn có tên gọi là Miếu thờ Long Vương. Miếu thờ này được đặt trong một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, kỳ thú được tạo nên từ ghềnh đá và biển, liên quan với đạo thờ Mẫu. Điều này chứng tỏ từ khi mở đất người Việt đã đặt chân lên Phú Quốc và đặt nền móng cho văn hóa Việt bén rễ ở vùng đảo xa này. Dinh Cậu liên quan mật thiết với tục thờ Bà Cậu, tức tục thờ Bà Thủy và Cậu Tai, con trai út cưng của bà. Nếu ở miền Quảng Nam- Đà Nẵng có tục thờ “Cậu Tài”( tài vật, tài sản…), thì trong tiến trình “Nam tiến” khai hoang người ta gọi chệch đi là “Cậu Tai”(tai hoạ, tai nạn…), một đối tượng khách quan mà mình chưa nhận thức hết, chưa chinh phục được. Từ chữ “Tài” đến chữ “Tai”, cho thấy bước phát triển mới về chủ nghĩa duy vật mộc mạc trong tư duy của nhân dân lao động khai hoang xưa.
Dinh Cậu ra đời vào khoảng thế kỷ XVII, nằm cách thị trấn Dương Đông 200m về phía tây. Từ bãi cát trắng xóa leo lên 29 bậc đá là đến miếu thờ. Uy nghi trên nóc dinh là hình ảnh “lưỡng long tranh châu”. Bên trong chánh điện thờ Chúa Ngọc nương nương và tượng thờ hai “Cậu” – những cao nhân bảo vệ ngư dân vùng biển đảo. Đứng trên Miếu Dinh Cậu đưa mắt xa nhìn bao quát được cả chợ Dương Đông. Trên đường lên Dinh ta gặp Miếu Thổ Thần nhỏ và một hàng rào bằng bê tông rất vững chãi bao quanh Dinh. Sân được láng bằng xi măng có đặt bàn thờ Ông Thiên. Bên hành lang di tích là hàng cột đúc bằng xi măng với những câu liễn đắp nổi bằng chữ Hán như: “Tọa đại thạch đầu quy danh hiển” (Dinh Cậu nổi tiếng tọa lạc ở đầu của mõm đá giống con rùa). “Vạn cổ anh linh thông tứ hải” (Từ xưa anh linh của Dinh Cậu đã vang khắp bốn biển). “Chấn phong bình lượng bảo lương dân” (Dinh Cậu như tấm bình phong bảo vệ dân lành). “Phong điếu vũ thuận dân an lạc” (Nhờ ơn cậu mà mưa thuận gió hòa dân cư an lạc). Cửa chính được làm bằng gỗ trên vòm cửa có ghi ba chữ Thạch Sơn Điện. Ngày xây dựng 14/7/1937 ngày trùng tu 14/7/1997.
Trước mỗi chuyến ra khơi hay vào dịp lễ tết, người dân đảo lại đến thắp nhang cầu mong cho những chuyến đi biển được bình an. Hàng năm vào ngày 15, 16-10 âm lịch, nhân dân mở hội lớn, có rất đông người tham dự.
Nằm ở cửa Sông Dương Đông, Dinh Cậu được ví như biểu tượng của Phú Quốc nơi biển, cát, nắng và đá hoà trộn với nhau thành một khung cảnh hữu tình. Nơi đây không chỉ là một cảnh vật đẹp, có hình thù kỳ thú mà còn là nơi đất thánh linh thiêng, cổ kính. Những bậc thang lãng mạn đưa bạn lên đỉnh để cảm nhận được làn gió biển dịu dàng, ngắm nhìn mặt trời lặn qua các tảng đá bị ăn mòn và thưởng thức cảnh thanh bình của dòng sông Dương Đông.
Tọa lạc trên một ghềnh đá vươn ra biển, Dinh Cậu luôn sừng sững, hiên ngang trước sóng to gió lớn nhưng lại trở nên huyền diệu, lung linh. Phía trước Dinh Cậu là cửa Dương Đông, nơi có ghềnh đá dài với những mỏm đá nổi lô nhô. Khi những đợt gió mùa thổi về, hàng ngàn ngọn sóng trắng xoá đổ vào cửa sông dào dạt. Liền kề Dinh Cậu là bãi Dương Đông với bờ biển cát vàng, nước xanh, rực nắng (còn gọi là bãi tắm Dinh Cậu).
Dinh Cậu hiện là điểm đến của khách du lịch với hàng trăm ngàn lượt người mỗi năm. Lên Dinh lắng nghe tiếng sóng rì rào mang đậm vị mặn mà của biển và trải lòng với thiên nhiên là điều thú vị rất riêng mà chỉ nơi này mới có.
NHÀ TÙ PHÚ QUỐC:
Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc, hay Trại giam Tù binh Cộng sản Phú Quốc là một trại giam nằm ở cực nam đảo Phú Quốc, tại xã An Thới. Trong chiến tranh Đông Dương, trại giam này có tên là Nhà lao Cây Dừa. Đây là trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa, từng giam giữ hơn 32.000 tù binh (40.000 tù nhân nếu tính cả tù chính trị nhiều thời kỳ). Trong Chiến tranh Việt Nam, tù binh chiến tranh Trại giam tù binh Phú Quốc đã phải chịu những hình phạt, tra tấn như đóng đinh vào tay, chân, đầu; đốt dây kẽm cháy đỏ đâm vào da thịt, đục răng, trùm bao bố chế nước sôi hoặc đổ lửa than, ném vào chảo nước sôi, thiêu sống, chôn sống… Trong thời gian tồn tại không đầy 6 năm (từ tháng 6/1967 đến 3/1973) trại giam tù binh Phú Quốc, có hơn 4.000 người chết, hàng chục ngàn người bị thương tật tàn phế.
Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc có tất cả là 12 khu (năm 1972) được đánh số từ khu 1 đến khu 12. Riêng khu 13, 14 được xây dựng thêm vào cuối năm 1972. Mỗi khu trại giam có khả năng chứa khoảng 3000 tù nhân. Năm 1972, có khoảng 12x 3000 = 36 000 tù nhân. Mỗi khu trại giam lại được chia làm nhiều phân khu. Thường thì có 4 phân khu, trong 1 khu. Một phân khu chứa được 950 tù binh. Riêng phân khu B2 dành riêng để giam giữ các sĩ quan. Tù binh có cấp bậc lớn nhất là Thượng tá. Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc do 3 tiểu đoàn quân cảnh (7, 8, 12) canh giữ. Ngoài ra, Phú Quốc cũng có một trại giam tù hình sự, giam giữ những tù nhân thường phạm bị kết án 10 năm trở lên, ở thị trấn Dương Đông, mặt tây của đảo.
* TRONG CHIẾN TRANH ĐÔNG DƯƠNG
Cuối năm 1949 đầu năm 1950, quân của Trung Hoa Quốc dân đảng thua trận trước Quân giải phóng Trung Quốc, rút chạy dạt sang Việt Nam. Lực lượng này có trên 3 vạn người, được Pháp đưa ra đóng tại phía nam đảo Phú Quốc một thời gian trước khi quay về Đài Loan theo Tưởng Giới Thạch.
Tận dụng nhà cửa có sẵn của trại lính Quốc dân đảng, quân Pháp lập một trại giam tù binh trên một diện tích gần 40 hécta, gọi là “Căng Cây Dừa” (Trại Cây Dừa). Trại gồm 4 khu nhà giam A, B, C, D. Các tù binh cộng sản bị Pháp bắt từ các chiến trường Trung, Nam, Bắc Việt Nam bị tập trung đưa ra trại giam này ở Phú Quốc. Số tù binh này gồm khoảng 14.000 người, đa số từ nhà tù Đoạn Xá (Hải Phòng). Cũng như tại các nhà tù khác trong Chiến tranh Đông Dương, tù nhân cộng sản tại Trại Cây Dừa sinh hoạt đấu tranh chống khủng bố, đàn áp, và tổ chức vượt ngục. Sau hơn 1 năm ở trại, có 99 tù nhân bị chết, 200 người vượt ngục.
Tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genève, Pháp trao trả cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hầu hết tù binh ở trại này.
* TRONG CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Cuối năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm xây dựng một trại giam ở địa điểm Căng Cây Dừa cũ, với diện tích rộng 4 hecta, đặt tên là Trại huấn chính Cây Dừa, còn gọi là Nhà lao Cây Dừa. Trại tù có nhà giam tù nam, nhà giam tù nữ, nhà giam phụ lão. Ngày 5 tháng 1 năm 1956, 598 người tù từ trại Trung tâm huấn chính Biên Hòa được đưa đến đề lao Gia Định, rồi đưa xuống tàu vận tải Hắc Giang của hải quân chở từ Sài Gòn về đến Phú Quốc. Về sau còn có thêm một số tù chính trị thuộc diện “Việt Cộng” hoặc “thân Cộng” cũng được đưa đến Trại huấn chính Cây Dừa.
Trong 7 tháng, từ tháng 2 đến tháng 9 năm 1956, có khoảng 100 tù nhân vượt ngục, trong đó có một số người bị bắn chết khi vượt rào. Các ông Phạm Văn Khỏe (em ruột của Phạm Hùng), và Mai Thanh (Tỉnh ủy viên, Bí thư Thị ủy Rạch Giá) cũng vượt ngục trong thời gian này. Thấy tình hình bất ổn, năm 1957, chính quyền Sài Gòn đưa số tù chính trị ở “Trại huấn chính Cây Dừa” về đất liền, và đày một số ra nhà tù Côn Đảo.
Khi chiến tranh Việt Nam leo thang, số tù binh và tù chính trị tăng cao, chính quyền Việt Nam Cộng hòa xây dựng thêm nhiều trại giam tù binh ở Biên Hòa, Pleiku, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quy Nhơn… Tại Phú Quốc, năm 1966, một trại giam rộng hơn 400 ha được xây dựng ở thung lũng An Thới, cách “Căng Cây Dừa” cũ 2km. Trại giam gồm 12 khu, mỗi khu có 4 phân khu A, B, C, D, với trên 400 nhà giam, được gọi là Trại giam tù binh cộng sản Việt Nam / Phú Quốc, thường được gọi là Trại giam tù binh Phú Quốc. Mỗi phân khu, ngoài 9 phòng để tù binh ở, có 2 phòng để thẩm vấn, phạt vạ hoặc biệt giam tù binh … Tất cả 11 phòng đều có cấu trúc vì kèo sắt, nóc tôn, vách tôn, mỗi phòng bề ngang 5 mét, dài 20 mét, hai đầu chừa hai lối ra vào, bề ngang khoảng 8 tấc và mỗi bên vách tôn có 4 cửa sổ, dưới vách tôn có khoảng trống chừng 3 tấc, có rào dây kẽm gai. Để canh gác khu trại giam, chung quanh mỗi khu giam có một pháo đài canh gác có đặt súng đại liên; tại cổng chính của khu giam có 2 vọng gác; một vọng tổng kiểm soát đốc canh, 2 giờ thay phiên gác một lần, liên tục 24/24 giờ; hai xe tuần tra liên tục quanh khu giam; ban đêm còn có các toán vào vòng rào giới hạn để kiểm soát lưu động tại các phân khu và 10 vọng gác di động. Đứng đầu ban chỉ huy trại giam là một trung tá hoặc đại úy (có lúc là một chuẩn tướng) Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đằng sau là một cố vấn Mỹ. Lực lượng canh giữ trực tiếp trại giam gồm có 4 tiểu đoàn quân cảnh, một liên đội địa phương quân, một đại đội công binh, một đơn vị hải thuyền và một đội quân khuyển.
Nhà tù Phú Quốc trở thành trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa, giam giữ hơn 32.000 tù binh (40.000 tù nhân nếu tính cả tù chính trị nhiều thời kỳ). Có khoảng 12.000 tù nhân là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, trong đó có khoảng 9000 người từ miền Bắc. Có trên 20.000 tù nhân là dân quân du kích xã, ấp và cán bộ chính trị. Có hơn 2.000 sĩ quan, hạ sĩ quan; trên 100 tù nhân là cán bộ cộng sản có trình độ chính trị trung cấp, sơ cấp (trong đó có 10 tỉnh ủy viên, trên 40 huyện ủy viên) và trên 200 chi ủy viên. Vào tháng 5-1969 tù binh đã tổ chức vượt ngục thành công tại khu B2.
* NHỤC HÌNH
Trong Chiến tranh Việt Nam, tù binh chiến tranh Trại giam tù binh Phú Quốc đã phải chịu những hình phạt, tra tấn như đóng đinh vào tay, chân, đầu; đốt dây kẽm cháy đỏ đâm vào da thịt, đục răng, trùm bao bố chế nước sôi hoặc đổ lửa than, ném vào chảo nước sôi, thiêu sống, chôn sống… Trong thời gian tồn tại không đầy 6 năm (từ tháng 6/1967 đến 3/1973) trại giam tù binh Phú Quốc, có hơn 4.000 người chết, hàng chục ngàn người bị thương tật tàn phế.
Một số nhục hình tại nhà tù Phú Quốc theo lời kể của các cựu tù nhân:
– “ĐÓNG KIM”: Dùng những cây kim chích đã cũ, đóng từ từ vào 10 đầu ngón tay.
– “CHUỒNG CỌP KẼM GAI”: Loại chuồng cọp làm toàn bằng dây kẽm gai, được đan chằng chịt xung quanh và trên nóc. Chuồng cọp này đặt ở ngoài trời trong phân khu. Mỗi phân khu có đến hai, ba chuồng cọp – loại nhốt 1 người và loại nhốt 3-5 người. Kích thước chuồng cọp rất đa dạng, có loại cho tù nhân nằm trên đất cát, có loại buộc tù nhân phải nằm trên dây kẽm gai, có loại chỉ nằm hoặc đứng; có loại chỉ ngồi lom khom; loại phải đứng lom khom, không đứng thẳng được mà ngồi xuống thì sẽ phải ngồi trên dây kẽm gai. Tù nhân phải cởi áo, quần dài, chỉ được mặc quần cụt để phơi nắng, phơi sương, dầm mưa suốt ngày đêm.
– “ĂN CƠM NHẠT”: Tù nhân không được ăn muối, sau hai tháng mắt sẽ bị mờ, sau 5-6 tháng liền có người bị mù hẳn.
– “LỘN VỈ SẮT”: Các tấm vỉ sắt loại có lỗ tròn và đầy mấu để mắc vào nhau và lật ngửa làm “đường băng sân bay” rồi bắt tù binh cởi áo, cởi quần ngoài, chỉ còn chiếc quần đùi. người tù bị bắt cắm đầu xuống vỉ sắt lộn ra sau, sau vài lần là lưng người tù tóe máu, đầu bị bứt tóc, tróc da tơi tả.
– “GÕ THÙNG”: Lấy thùng phuy úp lên tù nhân đang ngồi xổm, rồi gõ vào thùng. Tù nhân sẽ bị đau đầu, sẽ bị điếc vì tiếng gõ mạnh và sức ép không khí. Cũng bằng cách gõ vào thùng phuy đổ đầy nước, bên trong thùng là tù nhân. Kiểu tra tấn này có thể khiến tù nhân bị hộc máu vì sức ép của nước.
– “ĐỤC RĂNG” VÀ “BẺ RĂNG”: kê đục vào sát chân răng của người tù, dùng búa đóng làm răng gẫy văng ra.
– “ROI CÁ ĐUỐI”: Giám thị dùng những chiếc roi cá đuối dài, đem phơi để đánh tù. Trước khi bị đánh, tù nhân phải cởi áo để bị đánh vào da thịt trần. Roi cá đuối thường quấn lấy thân nạn nhân, rồi giật ra, làm da thịt bị đứt theo. Giám thị sau đó có thể lấy muối ớt xát vào da thịt nạn nhân. Đầu năm 1970, phái đoàn Hồng Thập Tự Quốc tế khi đến thị sát nhà tù Phú Quốc đã bắt gặp một chiếc roi cá đuối dính máu khô.
– “ĐÓNG ĐINH”: Những chiếc đinh 3 phân được dùng để đóng vào các ngón tay của tù binh trong quá trình tra tấn. Mỗi lần bị đóng đinh, xương ngón tay của người tù bị vỡ nát. Ngoài ra còn có loại đinh 7, 8 phân hoặc cả tấc để đóng vào thân người tù ở các vùng: cổ chân, khớp vai, mắt cá, ống quyển, đầu. Có người bị đóng đinh đến chết, sau này khi bốc mộ vẫn còn đinh găm trong hài cốt.
– Lấy bao bố trùm lên người tù rồi ném vào chảo nước sôi. Ba người tù ở phân khu C6 đã bị luộc chết.
– Dùng bóng đèn công suất lớn để sát mặt người tù trong thời gian dài cho nổ con ngươi.
– Dùng lửa đốt miệng, bộ phận sinh dục.
Tổ chức Chữ thập Đỏ đã đến nhà tù Phú Quốc vào những năm 1969, 1972. Các nhà quan sát của tổ chức này đã thấy sự tàn bạo có hệ thống và kéo dài tại nhà tù. Họ tìm được các vật chứng của nhục hình ở các tù binh, trong đó có các vết sẹo do tra tấn bằng điện, thể hiện của sự thiếu ăn, suy dinh dưỡng. Tháng 8 năm 1971, một điều tra viên của Sứ quán Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa báo cáo về sự đánh đập tù nhân tại Phú Quốc vẫn tiếp diễn. Trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, lực lượng canh gác tại nhà tù được đánh giá chỉ bằng số tù binh trốn trại, không có cố gắng nào trong việc kỷ luật các giám thị xử tệ với tù nhân. Sau các kết quả điều tra của MACV và Sứ quán Mỹ, Tướng Cao Văn Viên, tổng chỉ huy QLVNCH, vẫn khẳng định rằng các đoàn kiểm tra của tổ chức Chữ thập Đỏ quốc tế đã báo cáo sai lệch về tình trạng ở nhà tù.
* KHU DI TÍCH NHÀ TÙ PHÚ QUỐC
Năm 1995, Khu di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận di tích cấp quốc gia. Di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc gồm có tượng đài hình nắm tay, là “biểu tượng của sự đàn áp khốc liệt và tinh thần hiên ngang vùng lên phá xiềng của tù binh Phú Quốc” , nghĩa trang liệt sĩ, và khu Trại giam Tù binh Phú Quốc được phục dựng.
QUẦN ĐẢO AN THỚI:
Quần đảo An Thới là một quần đảo của Việt Nam, nằm ở phía Nam đảo Phú Quốc, tại tọa độ khoảng 9°50′ vĩ bắc, 104°05′ kinh đông. Quần đảo này bao gồm 15 đảo, trong đó ba đảo có người ở là Hòn Thơm, Hòn Rọi, Hòn May Rút Ngoài. Tổng diện tích đất nổi là 7,2 km², thuộc xã Hòn Thơm (thành lập năm 2003), huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Cư dân của quần đảo khoảng 2.410 người, sống chủ yếu bằng nghề biển. Quần đảo An Thới là một quần đảo của Việt Nam, nằm ở phía Nam đảo Phú Quốc, tại tọa độ khoảng 9°50′ vĩ bắc, 104°05′ kinh đông. Quần đảo này bao gồm 15 đảo, trong đó ba đảo có người ở là Hòn Thơm, Hòn Rọi, Hòn May Rút Ngoài. Tổng diện tích đất nổi là 7,2 km², thuộc xã Hòn Thơm (thành lập năm 2003), huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Cư dân của quần đảo khoảng 2.410 người, sống chủ yếu bằng nghề biển.
BÃI SAO:
Bãi Sao cách trung tâm thị trấn Dương Đông, Phú Quốc, Kiên Giang khoảng 25 km đường bộ. Tuy được mệnh danh là “con đường đau khổ”, nhưng khi bãi Sao hiện ra trước mắt, bảo đảm bao mệt mỏi của bạn sẽ nhanh chóng biến mất. Được gọi là Bãi Sao vì nơi đây ngày xưa khi đêm về, những con Sao biển tập trung về đây rất nhiều
Trên đường đi, bạn nhớ hái nắm lá tranh và hà thủ ô mọc đầy ven đường. Sau khi được nấu lên, đây sẽ là món giải khát ướp lạnh tuyệt vời của vùng biển này.
Sở hữu bãi cát vàng ươm và mịn như thảm, bãi Sao là nơi lý tưởng cho những ai thích phơi mình để có làn da rám nắng. Càng đi xa, bãi biển càng đẹp: Trong vắt và xanh thăm thẳm. Bạn có thể dừng chân ở lều Robinson hoặc các chiếc võng dưới tán cây. Tuy là lều trại, nhưng chúng được trang bị rất tiện nghi. Bạn có thể nghỉ đêm trong lều, giữa bầu trời đầy sao. Cùi biên mai nướng và rượu Sim rừng Phú Quốc là hai món bạn không thể bỏ lỡ khi đã đến đây.
SUỐI ĐÁ BÀN PHÚ QUỐC
Cái tên gọi “Suối Đá Bàn” đã làm cho những người đâu tiên nghe đến cảm thấy tò mò. Tại sao gọi là Suối Đá Bàn? Cái tên này gọi là tại đây những tảng đá lớn và bằng phẳng tựa như mặt bàn do đó người dân tại đây gọi là Suối Đá Bàn. Tương truyền, những tảng đá này là nơi các tiên nữ thường ngồi tắm mát mỗi lần hạ giới. Đá tầng tầng lớp lớp đổ dài uốn quanh về phía thượng nguồn.
Phú Quốc nổi tiếng với 99 ngọn núi trãi dài từ Bắc tới Nam, trong đó dãy núi Hàm Ninh là dãy núi dài nhất và cao nhất. Suối Đá Bàn bắt nguồn từ đây. Đây là nguồn cung cấp nước chính cho Hồ Dương Đông với chu vi hơn 3,5km, độ sâu 20m, với trữ lượng nước khoảng 5,5 triệu m³. Hiện nay lượng nước này chỉ cung cấp nước sinh hoạt cho thị trấn Dương Đông. Còn thị trấn An Thới và các xã khác sử dụng nước chủ yếu là nước giếng khoan hoặc đào.
Xuất phát từ thị trấn Dương Đông, đi ngược lên hướng Bắc Đảo rồi đi theo con đường có bảng chỉ dẫn về suối Đá Bàn. Du khách phải dừng chân trước cổng khu du lịch đỗ xe tại đây và đi theo cầu dây văng hoặc theo cầu cây tại đây có 2 cây cầu vượt qua suối để vào rừng.
Đi bộ khoảng 15 phút là đến suối. Tại đây trước mắt bạn hiện ra là những tảng đá lớn to, bằng phẳng như mặt bằng, tiếng nước đổ xuống nghe ầm ầm thật hùng vĩ. Khung cảnh khác xa so với Suối Tranh hiền hòa dịu êm.
Đường đến Suối Đá Bàn xa hơn và khó đi so với Suối Tranh. Do đó du khách đến Suối Đá Bàn ít hơn, chủ yếu chỉ là do dân địa phương hoặc những người bạn quen biết dẫn đi chơi. Khách du lịch theo đoàn thì đến đây không nhiều bằng Suối Tranh.
Đến với Suối Đá Bàn với những tảng đá lớn bằng phẳng rất thích hợp do du khách đi cắm trại và vui chơi thỏa thích cùng bạn bè hay gia đình.
Theo Đna Thích