HÀ TÂY (HÀ NỘI)

Hà Tây thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Phía Bắc giáp tỉnh Vĩnh Phúc, phía Tây giáp tỉnh Hòa Bình,
Phú Thọ, phía Đông giáp Hà Nội, Hưng Yên, phía Nam giáp Hà Nam. Địa hình của tỉnh tương đối
đa dạng bao gồm đồi, núi, đồng bằng. Do ảnh hưởng của địa hình, khí hậu Hà Tây có nhiều vùng
tiểu khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ trung bình năm khoảng 23,8oC. Vùng gò đồi có nhiệt độ trung bình
23,5oC, khí hậu lục địa chịu ảnh hưởng của gió Lào. Vùng Ba Vì có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung
bình 18oC. Hà Tây có nhiều hồ lớn và đẹp. Giao thông đường bộ, đường thủy và đường sông đều
thuận tiện. Với diện tích 2169km2, dân số 2.386.770 người (1/4/1999). Hà Tây là một trong những
tỉnh có mật độ dân số cao trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Hà Tây có hai thị xã: Hà Đông, Sơn Tây và
12 huyện, thủ phủ là thị xã Hà Đông.
Nằm ở cửa ngõ thủ đô Hà Nội, Hà Tây là tỉnh là có nhiều di tích và danh thắng, là một vùng đất giàu
tiềm năng du lịch. Về di tích lịch sử, tỉnh Hà Tây chỉ đứng sau Hà Nội và TP. HCM. Nhiều lễ hội nổi
tiếng ở Hà Tây đã là điểm dừng chân và làm say lòng bao du khách.
Là một tỉnh có các dân tộc ít người cư trú, Hà Tây là tỉnh có một kho tàng văn học dân gian phong
phú: ca dao, dân ca, tục ngữ, truyện thơ, truyện cổ tích, truyện cười có giá trị văn học. Hà Tây là
vùng đất sản sinh ra nhiều danh nhân dân tộc tiêu biểu như Phùng Hưng, Ngô Quyền, Nguyễn Trãi,
Phan Huy Chú, đồng thời là mảnh đất bảo tồn nhiều di sản văn hóa dân tộc, tiêu biểu là hàng trăm
đình chùa, miếu mạo có giá trị về kiến trúc điêu khắc, nghệ thuật tôn giáo.
Nghệ thuật dân gian của tỉnh cũng khá phong phú. Người Kinh có hát chèo, hát trống quân, hát cò
lả, hát cửa đình, múa rối nước. Người Mường có hát xéc bùa, hát ru, hát đồng dao. Nhạc cụ có
trống kèn, cồng chiêng là một loại hình âm nhạc độc đáo của dân tộc Mường. Người Dao có múa
rùa, múa chung, múa chim.
Chùa Trăm Gian
Chùa Trăm Gian còn có tên là chùa Tiên Lữ, tọa lạc ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Hoài
Đức, tỉnh Hà Tây. Chùa được xây dựng thời Lý và đã được trùng tu nhiều lần. Chùa có đủ trăm
gian, tam quan có tám mái đứng sừng sững trên cao hàng trăm bậc gạch.
Ngôi chùa hiện nay còn giữ được nhiều di vật quý. Ở thượng điện có một bệ hình khối chữ nhật
bằng đất nung. Ở sân chùa có gác chuông hai tầng, tám mái dựng năm 1693, trên đó còn có khánh
đồng đúc năm 1749, có chiều ngang 1,42m. Trong chùa có pho tượng Tuyết Sơn bằng gỗ mít đen.
Xung quanh chùa có nhiều cây cổ thụ tùng, bách, có các bảo tháp xây kiến cố.
Chùa Trăm Gian là một trong những di tích đẹp của tỉnh Hà Tây.
Khu Du lịch Ba Vì
Từ Hà Nội đi khoảng 50km đến thị xã Sơn Tây, đi tiếp 16km đến suối Hai, nơi đây có nhà nghỉ tham
quan. Thuyền du lịch sẽ đưa du khách dạo quanh hồ, ghé lên các đảo trồng cây dược liệu, đảo
chim, đảo cò v.v… để tận hưởng cảnh sắc thiên nhiên.
Xe ô tô chạy tiếp 15 phút đưa du khách đến sườn phía Bắc của núi Ba Vì, thăm thác Ao Vua. Một
dòng thác xuất hiện từ trên cao tạo thành 3 tầng thác. Tầng thác cuối cùng đổ ào ạt xuống một hồ
nhỏ, nước xanh như ngọc thạch, đó là Ao Vua. Du khách có thể leo lên cả 3 tầng thác nhờ có
những cây hoa phong lan. Du khách có sức khỏe tốt hãy tiếp tục leo đến độ cao 400m để tìm dấu
vết còn lại của khu nghỉ mát có từ năm 1940 do người Pháp xây dựng. Đã có đường cho xe ô tô
chạy vòng quanh núi đưa du khách lên độ cao 1200m để hưởng cái thú nghỉ lại một đêm ở nhà
khách đầy trời sao.
Ngày hôm sau xuống núi, du khách hãy thám hiểm rừng nguyên sinh Ba Vì có diện tích 76.000ha
phân bố rải rác ở độ cao từ 200m đến 1300m so với mặt nước biển. Khí hậu ôn hòa, thảm thực vật

phong phú có tới 1700 lòai thực vật. Động vật có những loài quý hiếm như Công (Tavomanticus),
hươu sa (Cerrusnippom), thú Man malia, chim Aves, bò sát v.v…
Hồ Quan Sơn
Từ Hà Nội theo Quốc lộ 6 qua thị xã Hà Đông đi tiếp theo Quốc lộ 2 đến Tế Tiêu (Mỹ Đức – Hà
Tây), rẽ theo đường 76 khoảng 5km, rẽ phải là tới hồ Quan Sơn. Du khách không khỏi ngỡ ngàng
trước cảnh đẹp trời mây, sông nước, núi non trùng điệp ở đây.
Qua cầu Đông, điểm đầu tiên du khách đặt chân tới là bến đò hồ Giang Nội. Giang Nội là một trong
3 hồ lớn của Quan Sơn, rộng chừng 800ha. Đứng trên bờ, du khách đã nhìn thấy những dãy núi đá
trùng điệp của thiên nhiên soi mình dưới làn nước xanh mát của hồ. Núi ở đây có tới 20 ngọn lớn
nhỏ kéo dài ôm ấp các hồ nước ở Quan Sơn. Lại có nhiều vách núi đá dựng đứng nằm giữa lòng hồ
trông xa như những bán đảo nhỏ. Thuyền sẽ lần lượt đưa du khách tham quan hồ Quan Sơn và
ghé thăm các ngọn núi với nhiều tên gọi khác nhau: núi Trâu trắng, núi Sư Tử, núi Quai Chèo…
Quan Sơn còn có nhiều chùa, chùa Linh Sơn nằm ngay chân núi Linh Sơn, soi bóng xuống hồ
Giang Nội. Chùa được xây theo kiến trúc chùa cổ thế kỷ 17. Tương truyền chùa có từ nhà Mạc.
Cạnh chùa là động Linh Sơn, không lớn nhưng có nhiều nhũ đá rũ xuống lung linh huyền ảo. Ngoài
ra còn có chùa Cao, chùa Hàm Yên.
Chùa Tây Phương
Chùa xây trên núi Câu Lâu, cao độ 50m, hình núi cong như lưỡi câu, sườn núi đất đỏ, tre trúc mọc
um tùm. Từ chân núi bước lên chùa qua nhiều bậc đá ong. Chùa Tây Phương còn có tên “Sùng
Phúc Tự”, chưa rõ được xây dựng từ đời nào. Chỉ biết rằng năm 1554, Mạc Phúc Nguyên xây dựng
lại chùa theo hình dáng như ngày nay. Tiếp đó năm 1660, Trịnh Tạc cho sửa lại và xây Tam quan
(Tam quan nay không còn). Cuối đời Tây Sơn (1802) chùa lại được sửa chữa thêm một lần nữa,
được đúc thêm chuông và đổi tên là “Tây Phương cổ tự”.
Các tượng Phật trong chùa Tây Phương là niềm tự hào của môn nghệ thuật tạo hình truyền thống
của dân tộc ta. 72 pho tượng Phật tạc bằng gỗ mít sơn son thiếp vàng, pho nào cũng đặc sắc, biểu
hiện một cách sinh động sắc thái, tình cảm của con người trong mọi tình huống vui, buồn, tức giận.
Đặc biệt là 18 pho tượng La hán (tên gọi người tu hành đạt tới cõi cao thâm của đạo) ở chùa Tây
Phương và 8 tượng Kim Cương, một tượng ông Thiện, một tượng ông Ác đã đạt tới trình độ mẫu
mực trong nghệ thuật điêu khắc truyền thống của nước ta, mỗi pho một vẻ, vui, buồn, suy nghĩ, giận
dữ rất sinh động.
Nổi bật nhất là tượng La-hầu-la và tượng Tuyết Sơn. Tượng La-hầu-la (Rabula, con trai của Thích
Ca theo cha tu hành) tay cầm gậy, tay để trên đầu gối; tượng Tuyết Sơn má hóp, mắt sâu, da bọc
xương, ngực bày 12 đôi xương sườn, đang trầm tư. Nhìn những công trình nghệ thuật điêu khắc
độc đáo này, nhà thơ Huy Cận đã cảm hứng viết nên những lời thơ mang nặng suy tư:
Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những hạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can vò vỗ trán
Đau đời có cứu được đời đâu!
Trẩy hội chùa Hương
Hàng năm, vào tiết xuân sang, bắt đầu từ tháng Giêng đến tháng Ba, bà con miền Bắc rủ nhau đi
trẩy hội chùa Hương rất đông. Hai tiếng “trẩy hội” cũng phản ánh khá rõ màu sắc nặng nề tín
ngưỡng. Trước đây, người ta tin rằng đến chùa Hương uống nước suối Giải Oan sẽ tẩy sạch tội
trần, những người hiếm con lại ngồi vuốt ve núi Cậu để xin con, khấn vái “núi Vàng”, “núi Bạc” để
cầu của. Bây giờ ít ai nói “đi trẩy hội chùa Hương”, người ta rủ nhau đi viếng cảnh chùa Hương. Và
hiện nay, khi mùa xuân đến, bà con lũ lượt đến chùa Hương với nội dung tham quan, giải trí là chủ

yếu. Đây là một trong những lễ hội kéo dài nhất nước từ rằm tháng Giêng đến rằm tháng Ba thu hút
hàng vạn người hành hương từ khắp nước.
Cảnh đẹp chùa Hương được tặng danh hiệu “Nam thiên đệ nhất động”, tức “động đẹp nhất trời
Nam”. Từ bao năm qua cảnh đẹp của chùa Hương đã từng là đề tài cho nhiều bài thơ, vịnh.
Chùa Hương ở cách Hà Nội khoảng 60km. Từ Hà Nội nếu không có phương tiện riêng có thể đi xe
buýt vào thị xã Hà Đông, lên thị trấn Vân Đình, qua 10km nữa là tới Bến Đục. Tại bến đò có nhiều
bà con mang những bó gậy trúc chào mời. Bạn nên trang bị cho mình một “chiếc gậy hành hương”.
Từ Bến Đục, khách đi bộ đến bến đò Yên Vĩ là bắt đầu bước vào cảnh chùa Hương. Trước mắt bạn
trải ra một vùng “non nước hữu tình”.
Tại bến Yên Vĩ – còn gọi là bến đò Suối, vì dòng nước này hình thành do con suối từ động Hương
Sơn chảy ra. Đò đưa ta đến bến đò Trình. Gọi là đền Trình, vì theo tục lệ từ xưa, ai vào chùa
Hương cũng phải ghé thuyền vào đây là “thủ tục đăng ký” trình diện với sơn thần tại chỗ. Đền Trình
trước đây khá lớn gần 10 gian, có hai con voi phục bằng đá chầu trước cửa. Nhưng nay chỉ còn 3
gian bằng gạch. Khi này bị giặc Pháp vào đốt phá hai lần vào năm 1947, 1948 và bị thả bom một lần
vào năm 1950.
Vì cái đẹp của chùa Hương rất biến ảo theo góc độ ta đứng nhìn, biến ảo theo thời tiết, biến ảo theo
tuần trăng khuyết, trăng tròn. Do đó mà những du khách say mê cảnh chùa Hương mới cất công đi
viếng nhiều lần. và mỗi lần đều thấy thêm vẻ đạp mới.
Đến Hương Sơn, chúng ta không chỉ thăm một vùng mênh mông rừng núi, suối đồi, với nhiều hang
động, những cảnh chùa cổ kính nghi ngút khói hương và sương mù. Đến Hương Sơn, ta còn có dịp
làm quen với cây mơ và rau sắn: “Thỉ thẻ rừng mai (cây mơ) chim cúng trái”. Trái mơ ở Hương Sơn
có nhiều loại: mơ đào, mơ chấm son, mơ bò hống, mơ song thọ. Loại nào cũng quý, cũng ngon,
đáng mua về làm quà.
Làng lụa Vạn Phúc
Nằm trên bờ sông Nhuệ thuộc thị xã Hà Đông. Làng có nghề dệt lụa tơ tằm từ xa xưa. Hiện trong
làng có đền thờ bà tổ dạy nghề dệt cho dân làng và dân các nơi tụ về đây xin học nghề, làm thuê
cho các khung dệt. Lụa tơ tằm Vạn Phúc nổi tiếng mịn mặt mát tay là mặt hàng quý được nhiều
người ưa dùng, với tên quen thuộc: lụa Hà Đông:
Nắng Sài Gòn em đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Ngày nay, dân làng vẫn tiếp tục làm nghề cổ truyền với quy mô lớn. Lụa tơ tằm Vạn Phúc không chỉ
dùng trong nước mà còn xuất sang nhiều nước khắp châu lục.
Du khách đến với làng Vạn Phúc sẽ cảm thấy thư thái bởi cảnh làng, cảnh chùa Vạn Phúc có vườn
ao, cây trái với hồ sen, giếng nước…
Khoang Xanh – Suối Tiên
Là điểm du lịch có mọi trường sinh thái còn tương đối nguyên vẹn, nơi có nhiều người Mường sinh
sống, ở cách thị xã Sơn Tây khoảng 20km, cách Hà Nội 60km.
Từ xa chúng ta đã nghe tiếng thác nước ào ào, cùng với cảnh núi rừng hùng vĩ xung quanh khiến
phong cảnh nơi đây càng thêm ngoạn mục. Đi hoảng 500m ta sẽ được đắm mình trong một thung
lũng thơ mộng bên núi Tản Viên, có dòng suối Tiên vắt mình từ trên cao, len lỏi qua các sườn đá
chảy xuống trông như một dãi lụa bạc khổng lồ. Thác nước từ trên cao đổ xuống tung bọt trắng xóa.
Sau khi tham quan thác, lội suối thỏa thuê, ta có thể leo lên đỉnh núi Vua, nơi có rừng nguyên sinh
với hệ động vật phong phú, các loài cây cổ thụ quý hiếm.
Khu du lịch Khoang Xanh – Suối Tiên rất thích hợp cho các loại hình du lịch cuối tuần, leo núi, tắm
suối, thăm bản dân tộc Mường. Khu du lịch này hiện đang thu hút rất nhiều khách du lịch, để lại cho
du khách những ấn tượng khó quên.

Đường sắt Thống Nhất
Ngày 31/12/1976, Tổng cục đường sắt và Bộ Giao thông vận tải tại Hà Nội và TP. HCM đã khai
trương tuyến đường sắt Bắc Nam dài 1730km. Công nhân, bộ đội và các tầng lớp nhân dân đã làm
mới 626km đường, trong đó có 475 cầu, 520 cống và 150 nhà ga, đồng thời khôi phục các đoạn cũ
từ Huế – Đà Nẵng 130km và Phù Mỹ – Sài Gòn 630km.
Thực ra ngày 4/12/1976, vào lúc 10h55 đã có một đoàn tàu chở hàng xuất phát từ ga Hà Nội chạy
vào TP. HCM để kiểm tra chất lượng con đường. Thời điểm đó, một đoàn tàu rời TP. HCM ra Hà
Nội cũng với nhiệm vụ như trên.
Tính từ khởi công các đoạn phải làm mới cho tới ngày 4/12/1976, nối xong đoạn ray cuối cùng giữa
Chu Lễ (Hà Tĩnh) và Minh Cầm (Quảng Bình) là 14 tháng.
Ngành đường sắt đóng một vai trò quan trọng trong xã hội – kinh tế của Việt Nam. Sau hơn 20 năm
phát triển , ngành đường sắt không ngừng phát huy vai trò thúc đẩy kinh tế của mình, luôn không
ngừng nỗ lực đi lên. Đường sắt của chúng ta nếu so với trên thế giới, các nước láng giềng là kém
phát triển. Chúng ta chỉ có một đường ray duy nhất, các tàu phải chờ ở các ga để tránh nhau, tốc độ
di chuyển thấp. Không những thế đường ray của chúng ta hiện nay so với trên thế giới là quá nhỏ,
độ rộng chỉ khoảng 1m, so với Trung Quốc là 1,43m, Thái Lan là 1,4m, Nhật Bản là 1,5m. Tốc độ
trung bình hiện nay của tàu lửa nước ta là 58,5km/h, Trung Quốc là khoảng 100km/h, Nhật Bản
khoảng 180km/h. Trong tương lai khi đường xe lửa thành hiện thực thì ngành đường sắt Việt Nam
sẽ phát triển, hòa cùng xu thế chung của toan khu vực. Tháng 9/2000 vừa qua chúng ta đã đưa vào
hoạt động hệ thống xe lửa thế hệ thứ hai với các trang thiết bị khá hiện đại: máy lạnh toàn bộ, máy
nấu nước nóng, hệ thống cung cấp điện, toa ăn dịch vụ trên tàu. Và không bao lâu nữa chính phủ
Việt Nam sẽ xây dựng thêm một đường ray xe lửa mới chạy song song với đường ray hiện nay,
nhằm tăng chất lượng và tốc độ của xe lửa Việt Nam. Hiện nay trên thế giới người ta đã áp dụng rất
nhiều phát minh khoa học kỹ thuật mới vào ngành đường sắt: đệm từ trường, lực hút nam châm…
Các tàu lửa nổi tiếng trên thế giới như: TGV của Pháp khai thác từ năm 1985, tốc độ đạt 300km/h;
xe lửa của Nhật Bản được khai thác vào năm 1992, đạt tốc độ 400km/h. Vừa qua nhân kỷ niệm 51
năm quốc khánh Trung Quốc (1/10/1949 – 1/10/2000) thành phố Thượng Hải đã đưa vào sử dụng
xe lửa cao tốc đạt 320km/h.
Tuyến đường sắt xuyên Việt:
Trên tuyến đường sắt Bắc-Nam có 1420 cây cầu lớn nhỏ thuộc nhiều chủng loại, phần lớn xây dựng
từ đầu thế kỷ, trong đó 20% các cây cầu phải hạn chế tốc độ, 27 hầm lớn nhỏ xuống cấp nặng, nền
đường có nhiều đoạn có địa chất xấu, thủy văn biến động, lũ lụt gây hư hỏng, còn nhiều bộ ghi và
trên 400km ray nhỏ dùng từ đầu thế kỷ XX đến năm 1993 chưa được thay thế, tà vẹt bị khuyết tật
mục nát nhiều, thiếu đá, thiếu phụ tùng đầu máy, toa xe…
Kỷ niệm lần thứ 103 ngày sinh Bác Hồ, lúc 6h40’ ngày 19/5/1993, ga Sài Gòn làm lễ khánh thành
đoàn tàu khách Hà Nội-TP.HCM chạy 38 giờ. Để có thể đưa đoàn tàu vào hoạt động, ngành đường
sắt Việt Nam đã chỉnh tu xong 687km đường, 54 cây cầu xung yếu, 120 bộ ghi… đã đưa vào công
trình gần 50.000m3 đá, 26.000 tà vẹt các loại, 67.000 bộ phụ kiện, 110.000 đinh đệm các loại, sửa
chữa hoàn chỉnh 3 đầu máy xe lửa Tiệp Khắc, sửa chữa kết hợp hoán cải 10 toa xe Ấn Độ thành 10
toa ngồi mềm có giá hành lý kiểu máy bay, mỗi toa lắp đặt hai TV 21inch, một đầu máy Vidéo, hệ
thống trang âm nghe nhạc, phát thanh, mỗi ghế ngồi, nằm đếu có chiết áp điều chỉnh âm lượng và
ống nghe. Các tiện nghi, vệ sinh, điện nước… được tăng cường. Một xe giường nằm, một toa hàng
ăn thiết kế nội thất đẹp, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của khách.
Với hành trình Bắc-Nam 38 giờ, đoàn tàu phải chạy với tốc độ bình quân 52-55km/h, ở nhiều nơi
phải chạy với tốc độ 70-75km/h. Trong khi đó, tốc độ cho phép của đầu máy Tiệp Khắc sử dụng là

80km/h, ở nhiều đoạn lên dốc và phải chạy với tốc độ 70-75km/h, đầu máy bị gầm quá mức cho
phép, không bảo đảm sử dụng lâu dài được.
Thực hiện quyết định của Liên hiệp đường sắt Việt Nam về việc rút ngắn thời gian chạy tàu Bắc-
Nam từ 38 giờ xuống 34 giờ, xí nghiệp quản lý đường sắt Sài Gòn đã chỉnh tu đoạn đường sắt từ
TP. HCM đến Mường Mán (Bình Thuận) dài 180km, trong đó có 1759 m cầu các loại và 3600m
cống. Việc chỉnh tu này cho phép nâng tốc độ chạy tàu ở một số cung đoạn lên 80km/h và toàn
tuyến sẽ rút ngắn được 23,5 phút. Ngày 19/5/1997, tàu Bắc-Nam hành trình 34 giờ chính thức đi
vào hoạt động.
Năm 1998, ngành đường sắt Việt Nam đầu tư khoảng 103 tỉ đồng để sửa chữa, nâng cấp 526km
đường, gần 3km cầu và một số mạng thông tin – tín hiệu… nhằm tiếp tục rút ngắn hành trình chạy
tàu Bắc Nam (Hà Nội-TP. HCM) từ 34 giờ xuống còn 32 giờ vào đầu tháng 5/1999. Kể từ 2005, tàu
Bắc Nam chỉ còn 29 giờ, trên tàu có trang bị Điện thoại có thể liên lạc với khắp nơi.
Ngành đường sắt đang bị cạnh tranh quyết liệt bỏi các ngành GTVT khác. Khách trong nước phải
cân nhắc chọn lựa giữa giá vé xe lửa, giá vé máy bay và giá vé các chuyến xe khách Bắc-Nam.
Hành khách du lịch ngoại quốc tùy theo mùa vụ, nghỉ hè hay tết lễ, chiếm 3-5% lượng hành khách
của ngành đường sắt. Trong khi tàu hỏa cố gắng tăng tốc độ thì loại du khách này lại cần tàu đi
chậm để ngắm cảnh, vì vậy họ chỉ mua vé tàu tuyến đường ngắn từ TP. HCM đi Nha Trang, Vinh
hay Huế, không đi suốt tuyến đường Bắc-Nam.
Bánh Dày Quán Gánh
Ngày xưa, cách đây đã một thế kỷ, thôn Thượng Đỉnh có một ga xếp nhỏ, tàu thường đỗ lại trả
hàng. Người dân ở đây vì thế có thêm nghề gồng gánh hàng hóa kiếm tiền thêm. Cái quán mà họ
thường ngồi chờ tàu về để gánh thuê được gọi là Quán Gánh. Ở đó luôn bày bán thứ bánh dày do
chính người dân nơi đây làm ra, ăn rất ngon và được nhiều người đi tàu mua về làm quà. Họ gọi
luôn là bánh dày Quán Gánh cho dễ nhớ và tên gọi đó vang xa, nổi tiếng mãi đến tận bây giờ.
Cũng như những loại bánh cổ truyền của Việt Nam, nguyên liệu để làm bánh dày vẫn là gạo và đậu
xanh, cho thêm đường, thịt, vừng trắng, hạt sen trần… Bánh dày thuộc loại bánh “kén chọn”. Gạo
thì phải rặt gạo nếp, không được lẫn gạo tẻ, nếu lẫn lúc giã gạo tẻ cũng như hạt sạn sẽ trồi lên ngay
không tan ra được. Gao nếp cũng phải “nếp cái hoa vàng” của vùng chiêm trũng Hải Hậu thỉ bánh
mới dẻo và thơm. Vo gạo không được ẩu, vo thật sạch cho đến khi trắng hạt gạo, trắng cả nước đãi
gạo thì bán mới giữ được lâu mà không sợ bị chua. Đậu xanh cũng không được pha tạp đậu khác
vào mà phải là đậu hạt tiêu, vỏ dày và nhiều vỏ nhưng bé hạt thì bánh mới ngon mà không bị ngái.
Sản xuất bánh dày hoàn toàn bằng thủ công từ rửa lá, tước lá, hông xôi giã gạo, lộn nhân, vào vỏ…
Đến cả khi ăn cũng hoàn toàn bằng tay. Khó nhất có lẽ là khâu hông xôi, bởi gạo nếp là loại chín
bằng hơi hấp. Khi thổi xôi phải có chiếc đũa cả thật dài để “thăm” vào nồi xôi, lúc nếp không dính
vào đũa tức là xôi đã chín. Lúc đó mới bắt đầu “làm mưa”, bằng cách rưỡi nước mưa tinh khiết vào
hông. Không được cho nước nhiều quá xôi sẽ choẹt nhưng cho ít nước quá lại khô xôi, lúc giã xôi
sẽ khó nát hoặc dễ bị rữa ra.
Việc giã xôi thường do những người con trai đảm nhận. Xôi vừa hông chín đang nóng được rãi ra
cối, nói là cối nhưng thực ra là một khối bê tông đổ xuống đất dày thoảng 60 phân, mặt cối không
lõm mà hoàn toàn bằng phẳng. Trên cối lót vĩ buồm đã được xoa mỡ để tránh dính nếp. Đệm dưới
vĩ buồm là một mớ rơm sạch hoặc cói chiếu. Chày thường được bịt bằng mo cau, vừa tránh dính
nếp vừa có tác dụng làm mịn bánh. Chày càng nặng càng có độ dằn, lúc giã phải theo nhịp lên
xuống, giã càng mạnh, càng đều thì nếp tan ra càng mịn và đều. Đến lúc xôi không còn hình hạt gạo
dẻo quẹo, quệt chặt vào nhau thì lúc đó mới bắt đầu bắt bánh. Một người kéo mớ bột dẻo ấy dài ra,
ngặt từng khuôn một, to bằng quả bóng bàn. Những người khác cũng dùng tay lộn nhân vào bánh,
vào vỏ, để nguội bánh tự dẹt xuống, màu vẫn trắng tinh. Làm bánh dày nếu không khéo sẽ không

tách được năm cái bánh nhỏ trong một chiếc bánh mà dễ tạo thành một khối đặc hoặc các bánh
dính vào nhau. Muốn vậy khi xếp bánh cần phải bôi trơn tay, dùng ngón tay ấn vào giữa nhân bánh
tạo vết lõm trước khi xếp bánh, dùng nước mỡ hoặc óc lợn xoa lên bánh để tránh dính bánh.
Bánh dày có hai loại, bánh ngọt và bánh mặn. Tùy theo khẩu vị, sở thích của từng người có thể
chọn loại bánh mình thích, mỗi loại đều có vị ngon riêng. Nhân của bánh ngọt gồm có vừng trắng
rang lên ăn có vị bùi bủi thêm đường tinh trộn lẫn một ít dừa khô, hạt sen trần bọc trong đậu xanh
đã được thổi chín. Nhân của bánh mặn là thịt vụn, đậu, mỡ, hạt tiêu và hành phi. Sang hơn, nhân
của bánh mặn có thể cho thêm bột của con cà cuống nướng lên, giã ra cho vào đậu mặn thay hột
tiêu, ăn vừa có vị cay cay vừa thơm. Nhìn bề ngoài, bánh mặn chỉ gói lá dong, buột bằng dây giang,
còn bánh ngọt có thêm dây chun buộc ngang bánh. Nhưng nếu tinh mắt vẫn có thể thấy nhân của
bánh ngọt có màu vàng hơn nhân của bánh mặn.
Bóc lớp vỏ bánh dày bằng lá dong xanh rờn, hết lá này đến lá khác, 5 cái bánh nhỏ trắng tinh lộ ra
trông rất ngộ. Để bánh nằm gọn trên lá như để trên chiếc đĩa, cứ thế cầm từng chiếc mà ăn, không
cần đến bát đũa cũng như không phải thêm gia vị hay nước chấm gì cả.