Huế, tọa lạc trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương. Du khách nào đã từng đến đây đều dành thời
gian tìm về chốn tín ngưỡng - mơ mộng này để tĩnh tâm, chiêm bái, vãn cảnh.
Chùa Thiên Mụ là một danh lam thắng cảnh vào bậc nhất của cố đô Huế. Chùa được xây trên
đỉnh một ngọn đồi cao ngay bên bờ sông Hương đối diện vùng đất Long Thọ. Trước cửa chùa có
tháp kiến trúc theo hình bát giác, một kiểu bố cục theo hình bát quái. Tháp này gồm có 6 tầng
đều nhau nhưng càng lên cao thì diện tích lại được thu nhỏ lại. Mỗi tầng có một mái nhỏ chìa ra
với những đường nét trang trí khá tinh vi, đều đặn và sinh động lạ thường. Mỗi mặt có một cửa
cuốn khá lớn hình chữ nhật nhưng chung quanh có nhiều mô hình long nguyệt. Trên cùng là một
mái nhỏ 8 cạnh. Chính giữa có trang trí một hình nậm rượu có mũi nhọn. Chung quanh có những
mô hình vân vũ.
Truyền thuyết kể rằng, khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ
Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ
nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc
bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước
trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên
là đồi Hà Khê.
Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất
hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí,
làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn.
Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân
chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt
ra sông Hương, đặt tên là "Thiên Mụ".
Với quy mô được mở rộng và cảnh đẹp tự nhiên, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất
xứ Đàng Trong. Trải qua bao sóng gió lịch sử, chùa Thiên Mụ từng được dùng làm đàn Tế Đất
dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều vua nhà
Nguyễn. Năm 1844, nhân dịp mừng lễ “bát thọ” (mừng sinh nhật thứ 80) của bà Thuận Thiên
Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi
chùa một cách quy mô hơn: Xây thêm tháp Từ Nhân (sau đổi là tháp Phước Duyên), đình Hương
Nguyện và dựng hai tấm bia ghi chép thơ văn của nhà vua.
Khuôn viên chùa được chia làm hai khu vực: Khu vực trước cửa Nghi Môn gồm có các công
trình kiến trúc: Bến thuyền có 24 bậc tam cấp lên xuống, cổng tam quan là bốn trụ biểu xây sát
đường cái, từ cổng tam quan bước lên 15 bậc tam cấp là đình Hương Nguyện (nay chỉ còn lại
nền đất và bộ móng xây bằng đá thanh) sau đình Hương Nguyện là tháp Phước Duyên xây bằng
gạch vồ bảy tầng cao vòi vọi, hai bên đình Hương Nguyện có hai lầu bia hình tứ giác (dựng thời
Thiệu Trị), lui về phía trong có hai lầu hình lục giác một lầu để bia và một lầu để chuông (dựng
thời Nguyễn Phúc Chu). Đây là những công trình có tính chất lưu niệm (bia, tháp). Khu vực phía
trong cửa Nghi Môn gồm các điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan âm, nhà Trai, nhà
Khách, vườn hoa, phía sau cùng là vườn thông tĩnh mịch.
Trong phạm vi chùa Thiên Mụ đâu đâu cũng toát lên một chút thơ, một chút mộng của xứ Huế.
Mỗi công trình, kiến trúc dù được xây dựng dưới triều đại nào cũng đều thể hiện sự tín ngưỡng,
trang trọng và hài hòa với những công trình trước đó.
Thiên Mụ là ngôi chùa cổ nhất, kiến trúc đồ sộ nhất và cũng là ngôi chùa đẹp nhất của xứ Huế.
Vua Thiệu Trị liệt cảnh chùa Thiên Mụ vào một trong số 20 thắng cảnh của đất thần kinh trong
bài thơ đề là Thiên Mụ Chung Thanh. Năm 1695, Chúa Nguyễn Phúc Chu đã mở đại giới đàn rất
long trọng tại Chùa Thiên Mụ. Lịch sử huy hoàng của các Chúa Nguyễn trong quá trình khai
phá, lập nghiệp ở Đàng trong có thể nói được mở đầu bằng công trình xây dựng Chùa Thiên Mụ.
Tọa lạc bên bờ sông Hương thơ mộng, chùa Thiên mụ với kiến trúc cổ kính đã góp phần điểm tô
cho bức tranh thiên nhiên nơi đây càng thêm duyên dáng, thi vị. Tiếng chuông chùa như linh hồn
của Huế, vang vọng mãi trong dòng nước sông Hương chảy qua trước Kinh Thành, xuôi về cửa
biển, đọng lại trong lòng khách phương xa khi đến Huế một nỗi niềm vương vấn chốn Thiền
Kinh. Có lẽ vì thế mà du khách thập phương đã xem chùa Thiên Mụ như là một điểm đến trang
nghiêm khó lòng mà bỏ qua được. Đúng như nhà thơ Quách Tấn đã viết về chùa Thiên Mụ rằng:
“Những người phiền não trường danh lợi/ Đến đó thời lòng cũng phải khuây”.
Chùa Thiên Mụ như một chứng nhân lịch sử diễn ra trên đôi bờ sông Hương. Ngôi chùa vẫn luôn
tồn tại trong tâm thức người dân Huế nói riêng và đời sống văn hóa người Việt Nam nói chung.
Mặc dù không có nhiều tượng Phật như các chùa khác nhưng nhìn tổng quan, khuôn viên chùa
như một cung điện, dinh thự của các bậc vua chúa, quan lại xứ Huế ngày xưa. Vãn cảnh chùa, du
khách như đang đi vào không gian của trăm năm, thanh tịnh và thơ mộng. Khách bước qua khỏi
cổng chùa đã thấy lòng lắng lại, tĩnh tâm, bỏ lại đằng sau những phiền muộn, lo âu.
-ST-