Vào một thời kỳ khi mà hầu hết toàn thể lục địa Âu Châu đang ngụp lặn trong kỷ nguyên u
tối của thời Trung Cổ thì nơi miền Đông Nam Á xa xôi, các tay thợ kiến trúc, xây dựng và
điêu khắc đang xây cất những đền đài mà tầm vóc của chúng có thể sánh với những công
trình của nhân loại ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Đáng kể nhất là những đền Borobudur,
Prambanan ở Java, khu thánh địa vùng Pagan, Miến Điện, và quần thể những đền thiêng ở
Cambodia. Tiếp theo bài kỳ trước, chúng ta hãy cùng viếng kinh đô cổ xưa Angkor Thom
với khu đền trung tâm Bayon huyền bí.
Angkor Thom có nghĩa là Thành Phố Lớn là thành phố kinh đô lâu dài nhất và cũng là cuối
cùng của vương quốc Khmer được vua Jayavarman VII xây dựng vào cuối thế kỷ thứ 12.
Sau khi vua Suryavarman II là người xây dựng Angkor Wat băng hà vào năm 1150,
Kampuchia rơi vào tình trạng rối ren, vô chính phủ. Quân Chiêm Thành nhiều lần tấn công
và cuối cùng chiếm Angkor Wat. Jayavarman VII lúc sinh thời vốn là một người thích sống
ẩn dật, chọn lối sống thanh bần, ông thờ ơ với mọi biến động trong đời sống. Đến 50 tuổi,
thấy đất nước quá tang thương vì loạn lạc và bị ngoại xâm dày xéo, ông thấy không còn con
đường nào khác hơn là theo con đường kiếm cung mới mong cứu được đất nước qua cơn
nguy khốn. Năm 1181, ông dấy binh khởi nghĩa, sau ròng rã bốn năm chiến đấu, ông đánh
đuổi được Chiêm Thành ra khỏi đất nước mình, khôi phục lại thanh bình và xây dựng nên
một đất nước hùng mạnh.
Đền Bayon nhìn vào từ cổng phía đông
Kinh thành Angkor Thom chiếm một diện tích xấp xỉ 10 cây số vuông mà thời cao điểm của
nó dân số lên đến một triệu người trong khi ở Luân Đôn thời ấy chỉ có năm mươi ngàn dân.
Bên trong Angkor Thom là những kiến trúc có từ thời các vua trước cùng với những khu
đền xây dưới thời vua Jayavarman VII, cộng với những gì được xây dựng tiếp vào các đời
sau. Chính ngay ở Angkor Thom, vua Jayavarman cho xây dựng các công trình ồ ạt đên nỗi
về sau người ta tìm thấy một phiến đá ghi khắc lại Jayavarman như là chú rể mà thành phố
chính là cô dâu. Ba thế kỷ trước, đây là kinh đô dưới thời vua Yasodharapura, trung tâm
nằm hơi chệch về hướng tây bắc, kinh đô Angkor Thom nằm chồng lên một phần của kinh
đô cũ đó. Những khu đền đáng chú ý có từ trước gồm các đền Baphuon, khu cung điện
Phimeanakas của vua Suryavarman I, Sân voi, và Sân tượng vua “cùi” được sát nhập vào
khu vực hoàng cung. Ngôi đền sau cùng được biết đã xây thêm trong khu vực Angkor Thom
là Mangalartha vào năm 1295. Về sau các công trình sẳn có được thêm thắt ít nhiều nhưng
không tồn tại lâu vì được dùng những vật liệu không có độ bền cao. Angkor Thom vẫn tiếp
tục được chọn làm kinh đô nhưng tàn lụi dần mãi đến khi bị bỏ hoang phế.
Thành Angkor Thom cao 8 mét, vuông vức bốn cạnh mà mỗi cạnh dài 3 cây số, che chở một
kinh đô rộng gần 10 cây số vuông. Bên ngoài bao bọc bằng một hệ thống hào rộng chừng
100 mét mà theo truyền khẩu thời ấy chứa đầy loài sấu hung dữ. Hào vừa được dùng đề bảo
vệ thành vừa làm hệ thống dẫn thủy cung cấp nước cho dân chúng. Thành làm bằng đá ong
ở hai mặt, giữa phủ đầy đất. Ở giữa bốn mặt thành nhìn ra các hướng đông, tây, nam, bắc có
cổng thành với tháp đền cao 23 mét nằm bên trên, được tạc hình bốn khuôn mặt trông ra
bốn hướng. Ngoài ra, 500 mét về phía bắc cổng phía đông một cổng khác được xây thêm và
có tên là Cổng Chiến Thắng, con đường đi vào cổng này chạy song song với đường vào
cổng phía đông, đi vào công trường Chiến Thắng và hoàng cung, lệch về phía bắc của khu
đền Bayon. Lối vào các cổng thành là một cầu đá chạy qua hào nước, hai bên có hình tượng
các quỉ thần đang ôm kéo rằn thần Naga mà bên trái là 54 thần devas và bên phải là 54 quỉ
asuras như thường thấy ở Angkor Wat và một số đền khác. Đây có lẽ là hình ảnh tiêu biểu
cho truyền thuyết Khuấy Động Biển Sữa để tìm thuốc trường sinh, một truyền tích thấy
đầy dẫy trên những tranh chạm khắc trong các đền ở Angkor. Đây được xem như là nơi
chuyển tiếp giữa thế giới người với thế giới quỉ thần. Cổng phía nam tấp nập nhiều du khách
nhất vì nơi đây đã được phục chế gần hoàn toàn và các tượng tương đối ít mất đầu. Hơn nữa
đây là đường chính gần nhất nối thẳng từ Angkor Wat đến Angkor Thom.
Henri Mouhot khi mới đến đây vào khoảng năm 1858, từ tường thành vào trong là
rừng già rậm rạp, dây leo, cây cao khắp nơi không thể nào biết được có sự hiện diện của
thành phố và đền thiêng. Khó khăn lắm ông mới khám phá được khu đền Bayon mãi xa tít
tận bên trong, ở đó lần đầu tiên ông nhìn thấy những tháp với những khuôn mặt với nụ cười
bí hiểm.
Du khách tụ lại nghe giải thích ỷ nghĩa của các phù điêu.
Khu đền Bayon nằm ở trung tâm Angkor Thom, cách cổng thành khoảng 1 cây sô rưởi.
Bayon là khu đền súc tích với những trang trí chạm khắc bằng đá đẹp đẽ. Được xây dựng
trong khoảng cuối thế kỷ thứ 12 và đầu thế kỷ thứ 13 như là đền chính thức của vua
Jayavarman VII, tin theo Phật giáo đại thừa khác với tín ngưỡng Ân Giáo như các vua trước
nhưng vẫn theo truyền thống vua thần (devaraja). Vua Jayavarman VII cải giáo sang đại
thừa vì các vua đời trước nối nghiệp vua Suryavarman II theo Ấn Giáo, người xây dựng
Angkor Wat đã để quân Chiêm đánh bại. Sau khi Jayavarman VII chết, những vua nối tiếp
với tín ngưỡng khác nhau như Ấn Giáo, Phật Giáo Nguyên Thủy, đã xây thêm cho ngôi đền
dựa theo tín ngưỡng của mình.
Cầu đá dẫn vào cổng phía nam thành Angkor Thom với tượng các thần và quỉ vương đang
lôi kéo thần rắn Naga
Cấu trúc của Bayon gồm ba tầng mà cả ba tầng đều đổ nát nhiều, gạch đá nằm ngổn ngang
khắp nơi. Hai tầng dưới bố trí theo hình vuông, tô điểm bằng những phù điêu trên tường.
Tầng ba được sắp xếp theo hình tròn với nhiều tháp mà các mặt đá có hình khuôn mặt. Dãy
hành lang ở tầng dưới là một kho tàng nghệ thuật với 11 ngàn bức phù điêu chạm khắc trên
tường đá chạy dài 1200 mét, một tổng hợp liên quan đến lịch sử lẫn các truyền thuyết, miêu
tả cảnh diễn hành của vua và hoàng gia, những trận đánh của vua Jayavarman với Chiêm
Thành bằng cả thủy lẫn bộ chiến, ngoài ra còn miêu tả đời sống văn hóa, xã hội của một nền
văn minh đã bị lãng quên từ bao thế kỷ. Nhiều khoảng tường công trình vẫn còn dở dang,
chỉ còn để lại nét phát họa. Có lẽ bị bỏ dở khi vua Jayavarman qua đời.
Hình ảnh nổi bật nhất của Bayon vẫn là những ngọn tháp cao vút ở trung tâm bằng đá
tảng, chạm khắc thành 4 khuôn mặt nhìn bốn hướng. Những khuôn mặt có nụ cười bí ẩn
như nụ cười của nàng Mona Lisa trong bức danh họa La Joconde của Leonardo Da Vinci.
Kiến trúc của Bayon được xem như có phong cách của trường phái baroque, trong khi
Angkor thuộc phái cổ điển.
Sự tương đồng của vô số khuôn mặt khổng lồ trên các tháp của đền Bayon với các bức
tượng khác của vua Jayavarman VII khiến nhiều học giả đi đến kết luận đây chính là khuôn
mặt của nhà vua. Người khác thì cho là của Quán Âm Bồ Tát (Avalokitesvara hay
Lokesvara). Nhà học giả chuyên về Angkor học Mr. Coedes thì lý luận rằng vua
Jayavarman theo truyền thống của các vua Khmer tự cho mình là vua thần (devaraja), khác
với các vua trước theo Ấn Giáo tự cho mình là hình ảnh của thần Shiva, trong khi
Jayavarman là một phật tử nên cho hình ảnh Phật, và Bồ Tát là chính mình. Có tất cả 37
tháp đền đá tạc hình nhiều khuôn mặt nhìn xuống và nhìn đi bốn hướng như thể quan sát
chúng sanh và che chở cho đất nước.
Bên trong đền có hai dãy hành lang đồng tâm ở tầng dưới, và một dãy ở tầng trên.
Tất cả nằm dồn lại với nhau trong một không gian hạn hẹp 140 m x 160 m, trong khi phần
chính của ngôi đền nằm ở tầng trên lại còn hẹp hơn với kích thước 70 m x 80 m; khác với
Angkor Wat, người ta phải trầm trồ với qui mô to lớn và thoáng rộng của nó. Ta có thể ví
von sự xây dựng Bayon trong một không gian chật hẹp như xây một giáo đường lớn trên vị
trí của một nhà thờ làng. Từ xa nhìn vào Bayon rải dài theo chiều ngang như một đống đá
lổn chổn muốn vươn lên trời cao. Kết cấu của nó là một mớ bòng bong lộn xộn nhưng khi
đã đặt chân lên tầng trên người ta bỗng thấy trầm lắng lại. Cảm thấy nhỏ bé trước vẻ uy nghi
của những khuôn mặt khổng lồ tạc trên đá, người ta không còn quan tâm đến cái tổng thể
hay cái mớ hỗn mang của đồ án nữa. Bâng khuâng giữa hàng chục tháp đền với vô số khuôn
mặt với nụ cười bí hiểm được hình thành vượt khỏi tỷ lệ thông thường, xa vời với mọi qui
ước của kiến trúc, người ta chỉ chú ý đến vẻ mặt của từng khuôn mặt. Dần dần cái mớ bòng
bong vô trật tự ấy lại trở thành rất trật tự, người ta thấy nơi cái vô số tháp đền đó như tổng
hợp của nhiều phân tử gom lại ở trung tâm dưới hình thức một bó. Cái cấu trúc của khu đền
không còn là vấn đề nữa mà chính biểu tượng của nó mới đáng kể.
Một trong bốn khuôn mặt nhìn bốn hướng với nụ cười thần bí tạc trên tháp trung tâm. Đây
là tượng được nhiều du khách đứng cạnh để chụp hình nhất vì người ta tin sẽ được mang lại
nhiều may mắn.
Các tháp có kích cỡ cao thấp khác nhau, có tháp thật thấp khiến khuôn mặt như nhìn thắng
vào mắt của du khách. Đi theo những lối đi quanh co, người ta có cảm giác như đi lạc vào
một mê trận. Bất cứ rẽ vào lối nào du khách cũng trực diện với những đôi mắt đang chăm
chú nhìn mình. Người ta hẳn đều phải tán đồng với Pierre Lôti qua lời nhận xét của ông:
“Máu tôi như đông lại…Tôi thấy như mình bị quan sát từ mọi phía.”
Henri Parmentier, người đã dành hầu hết cuộc đời trưởng thành của mình cho việc tái xây
dựng một Angkor điêu tàn, đã gọi đền Bayon là “hết sức ấn tượng và lãng mạn. Du khách
thường bị ám ảnh bởi những cảm xúc ghê rợn.”
Henri Marshall, người quản thủ khu Angkor, đã viết trong cuốn Cẩm Nang Khảo Cổ Về Các
Đền ở Angkor của mình như sau: “Đặc biệt vào những đêm trăng, người ta có cảm tưởng
như đang viếng một ngôi đền thuộc một thế giới khác…Người ta cảm giác như mình đang
sống trở lại với một thời đại của những chuyện thần tiên, lúc mà thần Indra xây dựng một
đền thờ dành cho đám cưới của con trai mình lấy con gái của vua rắn Nagas nhiều đầu.”
Trong số hằng trăm ngôi đền nơi quần thể Angkor, Bayon khiến cho các nhà khảo cổ thắc
mắc nhiều nhât. Bayon hiện vẫn bao trùm nhiều bí ẩn mà lời giải đáp vẫn đang còn được
tranh cãi: nó được xây với biểu tượng gì, để thờ ai? Có lẽ thích hợp với lời giải thích nhất
vẫn là khuôn mặt với nụ cười hết sức bí ẩn nằm ở tháp trung tâm. Một số dân Khmer cho
rằng Bayon được xây dựng vào thời vương quốc này được chia thành 54 tỉnh, những đôi
mắt của những bức tượng này nhìn về phía muôn dân trong các tỉnh đó để cứu độ (dưới hình
ảnh bồ tát Quán Âm), để che chở (dưới hình ảnh của vua Jayavarman).
Thoạt đầu vào năm 1929, Robert J. Casey trong cuốn sách về Angkor nhan đề In Fact cho
rằng những khuôn mặt đá là những khuôn mặt của thần Siva thuộc Ấn giáo. Thế rồi trong
thập niên 1930, các nhà khảo cổ thuộc trường Viễn Đông Bác Cổ khám phá ra rằng cái mô-
típ ấy thuộc bên Phật giáo đại thừa mà những hình ảnh bốn mặt đó là của Bồ Tát Quán Thế
Âm (Bodhisattva Avalokitesvara). Họ lý luận rằng theo tông phái đại thừa, bồ tát là người
đã hoàn toàn giác ngộ để đạt thành Phật. Thay vì nhập niết bàn (nirvana), họ chọn ở lại trần
gian để cứu độ những kẻ đang bị trầm luân trong khổ ải. Qua nụ cười bí ẩn của các khuôn
mặt, vị bồ tát mà dân Kampuchia gọi là Lokesvara đang tỏ lòng thương cảm trước nỗi đau
của chúng sinh. Đồng thời có thuyết cho rằng vua Jayavarman VII tự cho mình hiển thị qua
hình ảnh của Lokesvara, một vị Phật sống qua vai trò của một vị vua thần.
Nhìn ngược về lịch sử, chiến thắng bất ngờ của vua Jayavarman VII dành lại độc lập cho xứ
sở từ quân Chiêm đã chiếm được trái tim của mọi con dân Khmer. Sau khi đánh bại quân
Chiêm, ông thừa thắng thôn tính luôn nước Chiêm Thành và mở rộng lãnh thổ trải dài khắp
vùng Đông Nam Á. Những tháp với bốn khuôn mặt nhìn ra bốn hướng có lẽ để làm e dè
những kẻ đến chiêm bái ở đền Bayon. Nhìn đâu họ cũng thấy những đôi mắt của vị vua thần
đang chằm chằm nhìn họ. Đồng thời những kẻ sùng bái thần phục lòng thương yêu của vị
vua dành cho họ qua những hình ảnh trên những bức phù điêu mô tả đời sống thường nhật
của dân chúng. Ngoài ra còn những bức miêu tả công lao đánh đuổi ngoại xâm Chiêm
Thành nhắc nhở với thần dân rằng họ mang ơn vô vàn đối với vị vua thần đầy nhân ái, kẻ đã
xả thân lưu lại trần gian vì lợi ích của muôn dân. Jayavarman còn có công xây dựng vô số
bệnh viện khắp đất nước Kampuchia. Một bản bia đá tìm được có trích dẫn rằng “ngài cảm
nhận được nỗi khổ của tha nhân hơn của chính mình bởi nỗi khổ của kẻ khác tức là nỗi khổ
của ngài, sự đau khổ của thần dân còn lớn hơn nỗi khổ của chính ngài nữa.”
Triệu Phong