ĐÀN NAM GIAO

Nhắc tới đàn Nam Giao tại Việt Nam, ai cũng nghĩ ngay đàn tế trời của vương triều Nhà Nguyễn
ở Huế. Mà kể cũng đúng thôi, bởi lẽ đây là đàn tế trời duy nhất còn nguyên vẹn không chỉ ở Việt
nam mà ở cả Đông Dương. Đàn Nam Giao được xây dựng vào năm 1806 duới thời vua Gia
Long, cách kinh thành Huế khoảng 4km về phía Nam, là nơi nhà vua làm Lễ tế trời.
Đây là công trình lộ thiên được khởi tạo vào mùa xuân Bính Dần (25-3-1806) do thợ và lính
thuộc Bộ Công và Bộ Binh thực hiện dưới sự chỉ huy của Chưởng quân Phạm Văn Nhơn cùng
Đô thống Trần Văn Năng. Đầu năm Đinh Mão 1807, triều Nguyễn đã tổ chức lễ tế trời tại nơi
này.
Về cấu trúc đàn Nam Giao triều Nguyễn gồm ba tầng, quay mặt về hướng Nam. Tầng thứ nhất
hình vuông, màu đỏ, tượng trưng cho người. Tầng thứ hai cũng hình vuông, gọi là Phương đàn,
màu vàng, tượng trưng cho đất. Tầng thứ ba hình tròn, gọi là Viên đàn, màu xanh, tượng trưng
cho trời. Kiểu kiến trúc này phản ánh quan niệm về vũ trụ trong văn hóa phương Đông: Thuyết
Tam tài (Thiên, Địa, Nhân); Thiên thanh, địa hoàng; Trời tròn, đất vuông.
Viên đàn (hình tròn) có 5 án thờ : án chính giữa thờ trời và đất ; các án xung quanh thờ chúa
Nguyễn Hoàng, các vua Gia Long, Minh Mạng và Thiệu Trị. Viên đàn cao 2,75m; chu vi hơn
127m, tô màu xanh, bốn mặt có thềm: phía nam có 15 bậc; đông, tây, bắc đều có 9 bậc.
Phương đàn (hình vuông) tên khác là Tùng đàn, có 8 án thờ, phía tả gồm 4 án thờ thần Đại minh
(mặt trời), án thứ nhì thờ các vì sao trong bầu trời, án thứ ba thờ thần mây, thần mưa, thần gió và
thần sấm, án thứ tư thờ thần Thái tuế (thần các năm) và thần Nguyệt tướng (thần các tháng); phía
hữu, án thứ nhất thờ thần Dạ minh (mặt trăng); án thứ nhì thờ thần núi, thần biển, thần sông và
thần chằm (đầm phá), thần các núi Triệu Tường, Khải Vận, Hưng Nghiệp và Thiên Thụ (bốn
“linh sơn” là nơi táng các vị tiên vương, tiên đế vừa kể); án thứ ba thờ thần giữ lăng tẩm và phần
mộ; án thứ tư thờ các thần kỳ trong nước. Đàn cao xấp xỉ 1m, vuông mỗi cạnh hiện đo được
83m, suy ra diện tích 6.889m², bốn mặt thềm đều 5 bậc.
Tầng thấp nhất cao 0,84m, vuông mỗi cạnh 165m, suy ra diện tích hơn 27.225m², bốn mặt thềm
đều 4 bậc. Góc đông nam là lò chứa củi, góc tây bắc là huyệt chôn máu và lông các con vật hiến
tế.
Khuôn viên đàn Nam Giao vốn được phân định bởi tường rào hình chữ nhật, bốn mặt có trổ cổng
và chắn trước từng cổng là bức bình phong. Mỗi bình phong rộng 12,5m, cao 3,2m, dày 0,8m,
được xây bằng đá, nay chỉ còn ba bức ở các phía đông, nam, tây. Tường cũng được xây bằng đá,
bị triệt phá từ lâu. Bên ngoài khuôn viên, thuở xưa còn có nhiều hạng mục công trình phục vụ tế
Giao được xây kiên cố bằng vôi gạch hoặc dựng tạm thời bằng tranh tre, bao gồm: Trai cung (nơi
vua giữ mình trong sạch trước khi tế Giao), Thần trù (nhà bếp), Thần khố (nhà kho), Quan cư
(nhà dành cho các quan tạm trú), Khoản tiếp (nhà đón khách nước ngoài). Các hạng mục trên
hiện nay chỉ còn Trai cung là còn nguyên vẹn.
Trong lẫn ngoài khuôn viên Nam Giao, xưa kia xanh rậm một rừng thông, loài cây tượng trưng
người quân tử. Từ khởi công xây dựng đàn Nam Giao, vua Gia Long đã ra lệnh “trồng cây gây
rừng” quanh công trình được xem vĩ đại và uy nghiêm. Thoạt tiên là trồng cụm thông về hướng
nam, phía trong tường rào, biểu thị cho bậc khôn ngoan tài trí đã kiên nhẫn nếm mật nằm gai và

dũng cảm vào sinh ra tử mà sáng lập vương triều. Xung quanh là các cây thông, mỗi cây đều gắn
một tấm biển nhỏ bằng đồng hay bằng đá khắc tên từng vị khai quốc công thần. Mùa xuân Giáp
Ngọ 1834, đến Trai cung chuẩn bị tế Giao, Minh Mạng đích thân trồng 10 cây thông rồi tự tay
buộc biển đồng có khắc bài minh do vua ngự chế. Vua Thiệu Trị nối ngôi cũng noi gương, trồng
11 cây thông như thế. Hàng ngũ hoàng thân quốc thích cũng như đại thần được vinh dự trồng
mỗi người một cây thông quanh đàn Nam Giao, trên cây có buộc thẻ bài khắc họ tên mình. Đến
đời Tự Đức, quyền được trồng thông tại khu vực Nam Giao nới rộng tới quan văn tứ phẩm lẫn
quan võ tam phẩm. Rừng thông Nam Giao vì vậy cũng mở rộng, lấn dần sang phần đất sau Trai
cung, vượt khỏi giới hạn tường rào cả quãng xa. Tính đến năm Ất Dậu 1885, tức từ đời vua Hàm
Nghi trở về trước, mỗi quan lại vào triều diện kiến đức vua để được thăng chức, nâng bậc, ngay
sau đó phải lên Nam Giao tự tay trồng một cây thông với sự chứng kiến của phái đoàn đặc biệt
gồm các thành viên đại diện Bộ Lễ và Bộ Công.
Dưới triều Nguyễn, lễ tế trời được cử hành tại đàn Nam Giao vào trung tuần tháng hai hàng năm.
Trước triều vua Thành Thái, lễ được tổ chức một năm hoặc hai năm một lần. Đến năm Thành
Thái thứ 2 (1890), ba năm tế một lần. Thời vua Bảo Đại, Lễ tế trời rút lại chỉ còn một ngày.
Trước 1 ngày, bắt đầu từ canh 5, Cấm binh cờ xí, giáo mác đầy đủ, dàn bọc xung quanh đàn cả
trong lẫn ngoài và các nhà Thần trù, Thần khố, Trai cung. Lính của các quân bộ Binh xếp hàng
nghiêm ngặt hai bên con đường xa giá của nhà vua đi qua, kéo dài từ trong Đại Nội đến bến Phu
Văn Lâu, qua bến đò bờ nam sông Hương ở xã Dương Xuân, cho tới tận đàn Nam Giao. Đồng
thời kỳ lão 6 huyện thuộc phủ Thừa Thiên bày hương án hai bên đường từ bến đò bờ nam đó cho
tới tận đàn sở, họ phải quỳ đón và quỳ tiễn xa giá của vua cho đến khi nhà vua yên vị tại Trai
Cung.
Từ Festival Huế 2004, đã bắt đầu tái hiện lại cảnh lễ tế Đàn Nam Giao, nhưng không tái hiện lại
lễ tế, chỉ tái hiện quang cảnh đoàn Ngự đạo hồi cung, không có vua. Festival Huế 2006 là festival
đầu tiên tái hiện lại toàn cảnh lễ tế Đàn Nam giao, có cả “Vua” làm chủ tế.
Xung quanh việc tìm người làm “Vua” cũng là một vấn đề khá lý thú. Ngày xưa Vua được coi là
Thiên tử - là con trời, thay trời trị dân nên đích thân nhà vua phải đứng làm chủ tế để chứng tỏ
hiếu nghĩa của một người làm con. “Vua” làm lễ tế, tuyên đọc chúc văn gửi trời đất, thần linh,
cầu mong quốc thái dân an. Người dân Huế trang nghiêm thắp nén nhang lên bàn thờ gia tiên khi
“vua” tế trời. Thế nhưng tìm người đóng vai vua lúc ấy là điều không dễ. Khó bởi lẽ ai cũng
ngại, vì tương truyền, ngày trước có hai lần vua triều Nguyễn “long thể bất an” nên triều đình đã
cử hai vị đại thần thay vua tế Nam Giao. Hai vị đại thần này sau đó đều chết một cách khó hiểu
(?!). Một chuyện khác, có đoàn làm phim từ Hà Nội vào Điện Thái Hòa, nơi vua thiết triều xưa,
để quay chiếc ngai vàng. Ở nơi linh thiêng mà nhiều người trong đoàn mặc quần cộc, áo may ô...
Sau khi cắm điện, bấm máy hoài mà đèn không sáng. Nhà văn hóa Huế Mai Khắc Ứng hiểu ngay
chuyện, liền chạy đi mua một thẻ nhang, hoa, chuối vào thắp lên khấn, thế là đèn sáng ngay (!).
Các diễn viên sợ đóng vai vua là vì thế.
Trước tình hình đó, UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đã họp và quyết định giao nhiệm vụ này cho
đạo diễn - NSƯT Ngọc Bình. Quyết định do Phó Chủ tịch UBND tỉnh ký tên, đóng dấu hẳn hoi.
Lần đầu tiên trong lịch sử sân khấu Việt Nam đã diễn ra chuyện rất hy hữu : Diễn viên đóng vai
vua phải có quyết định của chính quyền!
Cầm quyết định, Ngọc Bình rất lo âu. Dù là đạo diễn, diễn viên giỏi, nhưng anh chỉ đóng vai vua
trên sân khấu, còn bây giờ là vua ở lễ tế Giao Đàn, nếu có gì thất thố về tâm linh, không khéo
mang vạ. Nhưng vì cấp trên đã tin tưởng giao phó, Ngọc Bình nghĩ mình phải cố gắng làm tròn
trách nhiệm. Sau Tết hai vợ chồng Ngọc Bình lặng lẽ sắm lễ vật, vào Thế Miếu dâng cúng, cầu
xin tiên đế cho Ngọc Bình được đóng vai vua và đêm trước khi diễn ra lễ hội, vợ chồng Ngọc
Bình lại sắm lễ vật, lên đàn Nam Giao cúng cầu trời đất. Ngày xưa, trước khi tế Nam Giao, vua
phải trai giới 3 tháng 10 ngày ở Trai Cung để “dọn” sạch mình. Vì thế, Ngọc Bình cũng bắt đầu
“chay tịnh” cho đến ngày tế đàn. Với quyết tâm ấy, trong buổi chiều đoàn ngự đạo xuất cung,
mọi người đã thấy một thần thái uy nghiêm của một vị vua thật sự trước khi hành lễ. Với diện
mạo, cử chỉ thành kính lúc tấu sớ, “vua” Ngọc Bình đã làm cho tất cả những người có mặt tại
đàn Nam Giao phải nín thở. Lễ tế lần ấy đã thành công nhờ sự nhập vai xuất sắc của Ngọc Bình.
Sau lần làm “Vua” ấy cho đến nay, gia đình NSƯT Ngọc Bình vẫn luôn gặp nhiều điều may
mắn, và mỗi kỳ Festival, khi chuẩn bị cho lễ tế Nam Giao, cái tên Ngọc Bình luôn được nhắc tới.
Festival Huế 2010 đã cận kề, trong festival lần này Lễ Tế Giao sẽ tiếp tục duy trì trên cơ sở nâng
cao tính nghệ thuật và sự trang nghiêm của lễ hội. Hy vọng đó sẽ là một lễ hội hoành tráng, hấp
dẫn và mang đậm nét nhân văn độc đáo của vùng đất Cố đô.