Ngày 2/11/1899, Pháp ra Nghị định thành lập tỉnh ĐakLak, lỵ sở đóng tại Bản Đôn, do Bourgeois
làm Công sứ. Lúc này Tây Nguyên, trong đó có ĐakLak, trực thuộc Lào. Sau đó, do những cuộc nổi
dậy của Amajhao, Patau Pui, M’Trang Guh… vào những năm 1900-1904, Pháp buộc phải ra Nghị
định ngày 22/11/1904 trả Tây Nguyên về lại xứ Trung Kỳ, lỵ sở đóng tại Buôn Ma Thuột, nằm trên
dòng sông Ea Tam. Như vậy có thể nói ngày 22/11/1904 là ngày khai sinh ra thành phố Buôn Ma
Thuột.
Tỉnh ĐakLak (ĐakLak = Nước hồ Lak, theo tiếng M’Nông) có một thành phố là Buôn Ma Thuột, với
độ cao trung bình 500m so với mặt nước biển. Gồm có 36 dân tộc, trong đó người Kinh chiếm 60%,
người Êđê chiếm 20% và các dân tộc khác chiếm 20%.
Từ thành phố Buôn Ma Thuột theo Quốc lộ 26 đến Nha Trang (182km), Quốc lộ 27 đến Đà Lạt
(186km), Quốc lộ 14 đi Pleiku (188km), Quốc lộ 14A đi Bình Phước, Bình Dương và TP. HCM
(350km).
ĐakLak có khí hậu tương đối ôn hòa, nhiệt độ trung bình năm là 26oC, lượng ánh sáng dồi dào,
lượng mưa khá lớn: 2400mm/năm. Khí hậu được chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa kéo dài từ
tháng 5 – 11. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau.
ĐakLak nằm trên vùng đất đỏ rộng trên 1,5 triệu ha, trong đó có 70 vạn ha đất đỏ Bazan, có độ ẩm
trung bình 82%. Đất ở đây thực sự là điều kiện lý tưởng để phát triển cây công nghiệp dài và ngắn
ngày, nhất là cây Café và Cao su. Với tổng diện tích Café là 137.000ha, chiếm 75% tổng sản lượng
Café cả nước. ĐakLak nổi tiếng với Café Buôn Ma Thuột hương thơm đậm đà, một mặt hàng xuất
khẩu quan trọng của địa phương.
ĐakLak hiện tại vẫn là tỉnh có diện tích rừng và trữ lượng gỗ lớn nhất nước. Toàn tỉnh có
1.243.882ha rừng, trong đó rừng trồng khoảng 25.000ha. rừng của ĐakLak có giới động, thực vật
hết sức phong phú. Thực vật có trên 3000 loài trong đó có nhiều loại thực vật đặc hữu. Động vật có
93 loài thú, 197 loài chim. Đặc biệt ở đây có đến 32 loài thú quý hiếm như: Bò rừng, Bò xám, Bó tót,
Công, Trĩ sao, Sóc bay, Chồn bay, Khỉ, Gà rừng,…
Các dân tộc ở Tây Nguyên tuy không hình thành nên những lãnh thổ, tộc người riêng biệt nhưng
mỗi dân tộc đều tập trung ở một số vùng nhất định. Người Việt ở hầu hết các vùng trong tỉnh, người
Êđê cư ngụ ở vùng trung tâm, vùng Bắc và Đông Bắc, người M’Nông sống ở khu vực Tây Nam tỉnh,
người GiaRai tập trung ở vùng giáp giới tỉnh Gia Lai, người Tày, Nùng, Thái, Mường, Dao,
H’Mông… ở thành từng cụm nhỏ rải rác trên nhiều địa bàn trong tỉnh.
Cộng đồng các dân tộc ở ĐakLak với những truyền thống, bản sắc riêng của mình đã hình thành
nên một nền văn hóa phong phú và đa dạng, rất độc đáo, trong đó nổi lên bản sắc văn hóa truyền
thống của người Êđê, M’Nông và các dân tộc bản địa khác.
Thành phố Buôn Ma Thuột
Ngày 21/1/1995, Nghị định 08/CP của Chính phủ công nhận thị xã Buôn Ma Thuột được chuyển
sang thành phố cấp 4, với diện tích 270km2, gồm 10 phường và 5 xã có dân số là 222.038 người
(1995).
Giao thông vận tại có bước chuyển biến mạnh, hiện nay đã bắt đầu nâng cấp các Quốc lộ 14 và 27
nối liền TP. HCM và Đà Lạt. sân bay Buôn Ma Thuột phục vụ hàng ngày các chuyến bay nội địa đi
các tỉnh thành như TP. HCM, Hà Nội, Đà Nẵng,…
Dân tộc Êđê
Dân số 237.819 người (1995) thuộc nhóm ngôn ngữ Malayo-Polynesien. Người Êđê theo chế độ
mẫu hệ, người con gái đi cưới chồng, sau đám cưới người chồng đến cư ngụ tại nhà vợ mình, con
cái mang họ mẹ và chịu trách nhiệm về các lễ giỗ trong gia đình. Tất cả tài sản đều thuộc về người
vợ và con gái.
Kinh tế chủ yếu là làm lúa rẫy, trồng ngô khoai. Săn bắt và hái lượm chỉ là những hoạt động phụ
thêm. Trước đây người Êđê chỉ có ngôn ngữ nói. Năm 1920, hai thầy giáo người Êđê là Y Ut và Y
Jut nghiên cứu đưa ra một dạng chữ viết. Sau đó với sự chỉnh lý của Đốc học người Pháp
Antomachi và viên Công sứ Sabatier, chữ viết người Êđê ra đời. Đây là một dạng chữ viết dùng các
ký âm quốc tế cùng với mẫu tự Latin để hình thành.
Phong tục tập quán
Truyền thuyết người Êđê kể rằng: “Thần Y Rim là con Trời đã dạy cho người biết dùng gạo để nấu
cơm, thổi xôi, làm men rượu để uống. Vì uống say quên việc làm ăn nên con người đã giận thần và
tìm cách để đánh nhưng không sao bắt được. Mọi người bèn nhờ hai anh em thợ săn Y Tông và Y
Tang xua hai con chó đi bắt. Song càng đuổi thần càng chạy nhanh và cuối cùng đi vào một hang
sâu. Hai ngày sau hai anh em mới tới được cửa hang. Họ nhìn thấy quang cảnh đẹp, ánh sáng
chan hòa, cây cối tốt tươi, nhiều hoa quả, súc vật, chim muông. Họ nghĩ rằng nếu con người sống ở
đó thì sung sướng biết bao nên trở về khuyên bảo mọi người. Sau khi đến tận nơi xem xét, tù
trưởng Êđê đã đưa dân làng đến đó sinh sống. Trong 100 ngày họ lũ lượt kéo nhau đến đây. Đến
ngày 101, con trâu Y Rim bị vướng sừng làm sụp miệng hang nên những người đi sau không qua
được nữa. Hang đó gọi là hang Ađrênh mà từ lâu người Êđê vẫn tin rằng ở Krông Bông, phía Nam
Buôn Ma Thuột.
Ngoài tên gọi Êđê còn tên gọi Rađê. Êđê nghĩa là gì? Có 4 cách giải thích sau:
Êđê xuất phát từ tên gọi của loài tre và Êđê có nghĩa là những người sống trong rừng tre.
Êđê xuất phát từ tên tên thần Tối cao trong tín ngưỡng Êđê là Aê-Điê (đọc là Ai-Đia) và gọi trệt đi là
Êđê.
Đó là tên một dòng sông, rồi từ thuật ngữ Ea Đê (Sông-suối-đê) đã chuyển thành Êđê (?). Con sông
huyền thoại này cho đến nay vẫn còn mang tên gọi Ea Đê trên bản đồ sông suối của tỉnh ĐakLak,
một dòng chảy thuộc huyện Krông Buk ngày nay. Trong lịch sử, trước khi vùng Buôn Ma Thuột trở
thành trung tâm của cộng đồng Êđê thì trung tâm ấy lại là vùng Buôn Hồ cũ, nơi hiện hữu của dòng
mạch Ea Đê.
Êđê xuất phát từ hang Ađrênh phía Nam Krông Ana, và Êđê có nghĩa là người mới đến. (Cách giải
thích này ít được đề cập đến).
Rađê nghĩa là gì? Có hai cách giải thích:
Rađê bắt nguồn từ Orang Đê. Orang = người, từ phổ biến của các dân tộc thuộc ngữ hệ Mã Lai.
Như vậy Orang Đê có nghĩa là Người Đê.
Rađê xuất phát từ cách gọi của người GiaRai luôn biến âm Ê thành Rơ. Ví dụ:
Ê mô = Con bò (tiếng Êđê)
Rơ mô = Con bò (tiếng GiaRai)
Các nhóm địa phương của người Êđê
Người Êđê có hai nhóm lớn nhất, các nhóm khác chỉ sinh ra từ hai nhóm này. Đó là nhóm Êđê Kpă
(hay còn gọi là Êđê chính thống) sống gần Buôn Ma Thuột và nhóm Êđê Adhăm (hay còn gọi là Êđê
không chính thống) sống ở Ea Sup – Buôn Hồ – Ea H’Leo.
Ở hai nhóm Êđê này có những khác biệt về kiến trúc. Ví dụ: Người Êđê ở Buôn Hồ và Ea H’Leo, do
sống gần người GiaRai nên nhà sàn của họ thấp và ngắn hơn người Êđê Kpă ở Buôn Ma Thuột.
Nhà mồ của người Êđê Adhăm lớn hơn nhà mồ của người Êđê Kpă.
Ngoài hai nhóm trên còn có một số nhóm nhỏ tiêu biểu sau:
-Nhóm Krung sống giáp ranh ĐakLak và Gia Lai (Trong tất cả các nhóm Êđê chỉ duy nhất có nhóm
này có lễ đâm trâu).
-Nhóm Dlie Ruê sống ở Krông Ana.
-Nhóm Blô sống ở M’Đrăk.
-Nhóm Ktul sống ở hạ lưu sông Krông Păk.
-Nhóm Bih sống ở Lăk, chịu ảnh hưởng của người M’Nông.
Nguồn gốc lịch sử
Hiện nay tại Việt Nam có 5 dân tộc nói ngôn ngữ Mã Lai (hay Nam Đảo), đó là: GiaRai, ChuRu,
Raglay, Chăm và Êđê. Người Êđê nói riêng và người Tây Nguyên nói chung đều thuộc loại hình
nhân chủng Indonesien. Đó là kết quả hòa huyết của hai chủng tộc Mongoloid (da vàng) và
Australoid (da nâu).
Xưa kia vùng bán đảo Đông Dương không phải là nơi cư trú của chủng tộc Mongoloid mà là của
người Austraolid. Sau đó chủng tộc Mongoloid di cư từ phía Bắc sang (Trung Quốc). Vì đây là
chủng tộc mạnh nên cuối cùng chủng tộc yếu hơn là Australoid phải phụ thuộc vào nó.
Nói chung nguồn gốc của người Êđê là từ biển đi lên. Bóng dáng của văn hóa biển được thể hiện
rất rõ ở kiến trúc nhà dài mô phỏng hình dáng chiếc thuyền với hai vách nhà hơi ngã như lòng
thuyền. Dân tộc Êđê xưa kia vốn là một dân cư Malayo Polynesien ở bờ biển phía Nam Trung Quốc
(Quảng Đông). Sau đó vào thiên niên kỷ thứ hai trước Công nguyên, họ di cư theo hai con đường:
- Từ Quảng Đông men theo Đài Loan đến Philippines.
- Từ Philippines đến Indonesia và từ Indonesia đến Đông Dương và Đông Nam Á.
Cả bộ phận cư dân to lớn đó di cư đến miền Trung Việt Nam sinh sống và trở thành dân tộc Chăm.
Sau đó lãnh thổ người Chăm bị vương quốc Phù Nam của người Hindu xâm chiếm, áp đặt nền văn
minh Ấn Độ lên vùng đất này. Không chịu được sự thống trị của người Hindu, một số người Malayo-
Polynesien từ bỏ đất nước đi lên vùng núi Trường Sơn, chinh phục và hòa huyết với cư dân bản địa
nói tiếng Môn-Khmer, hình thành người Êđê, GiaRai hiện đại, khai phá Cao nguyên ĐakLak và Gia
Lai.
Quá trình này diễn ra trước nền văn minh Sa Huỳnh, tức là nền văn hóa tiền Chăm trước ảnh
hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Quan hệ xã hội
Êđê là dân tộc còn giữ lại đậm nét chế độ mẫu hệ và nó chi phối toàn bộ cuộc sống của họ trong gia
đình cũng như ngoài xã hội. Sinh sống trong môi trường cao nguyên với nền kinh tế nương rẫy, chịu
những tác động khách quan của lịch sử, xã hội Êđê tiến hóa chậm chạp và bảo lưu nhiều tàn dư
của xã hội tiền giai cấp. Xã hội cổ truyền Êđê vẫn lấy buôn làng làm đơn vị tổ chức xã hội cơ bản.
Trước nhất đó là một điểm tụ cư gồm từ vài chục đến hàng trăm nóc nhà có phạm vi cư trú và khai
thác riêng được cả buôn và các buôn khác thừa nhận và tôn trọng.
Xưa kia các buôn như là một tổ chức thị tộc (chỉ bao gồm một dòng họ cùng một dòng máu) không
được kết hôn với nhau. Đến khi người Pháp đặt chân đến Tây Nguyên thì buôn bắt đầu thay đổi, có
nhiều dòng họ trong cùng một buôn.
Theo ghi chép của Henry Mâitre (thế kỷ XIX) thì người Êđê có những ngôi nhà sàn dài 215m bao
gồm nhiều thế hệ khác nhau trong gia đình cùng một họ (trừ những con rể) và nhiều làng chỉ có một
nhà mà thôi gọi là “Nhà một nóc”. Tuỳ theo số nóc nhà trong buôn mà người Êđê gọi buôn lớn hay
buôn nhỏ. Buôn nhỏ có khoảng vài chục nóc nhà và buôn lớn thì vào khoảng vài trăm nóc nhà.
Mô hình buôn truyền thống luôn luôn có một con đường theo hướng từ Đông sang Tây và các nóc
nhà ở hai bên con đường đó. Theo quan niệm của người Êđê, hướng Đông, phía mặt trời mọc là
phía của cái sống, và hướng Tây, phía mặt trời lặn là phía của cái chết. Vì thế hướng Đông là cổng
làng và hướng Tây luôn luôn là nghĩa địa.
Các nhà dài trong buôn được bố trí theo hướng Bắc Nam và rất sát nhau theo lối mật tập (tập trung
cao). Buôn truyền thống rất ít cây và giữa các nhà có một khoảng trống nhất định không có hàng
rào. Trong buôn không có nhà cộng đồng (vì các nhà dài đã rất rộng) khác với buôn của cộng đồng
nói tiếng Môn-Khmer.
Nhà dài Êđê
Nhà dài Êđê xưa kia thường có chiều dài khoảng trên dưới 100m mà đồng bào thường ví “Dài như
tiếng chuông ngân” hoặc “Dài như một hơi ngựa phi”.
Về căn bản, nhà dài Êđê có một mô-tip chung về kết cấu bộ phận và kỹ thuật xây dựng. Nhà dài của
các nhóm Êđê Ađhăm, Kpă, Krung (Krông Puk), Êđê Bih hoàn toàn giống nhau về hình thức kiến
trúc cũng như sử dụng. Riêng nhóm Êđê Mthur ở huyện M’Drăk nhà thường ngắn và hẹp lòng hơn,
phần sàn sân trước thường tương đương với đường rọi từ góc mái, sân sàn không vượt ra ngoài
nhiều như nhà của các nhóm Êđê khác.
Nhà dài truyền thống Êđê thường được xây dựng bằng nguyên vật liệu địa phương như khung nhà
bằng gỗ, xương mái nhà sàn bằng tre, nứa, mặt sàn và vách bao xung quanh bằng bương hoặc tre
bố banh đập dập; mái lợp bằng cỏ tranh hoặc mây tết lại. Ngày nay nhà dài Êđê lợp bằng mái tôn
hoặc ngói nung, vách và sàn được thay bằng ván gỗ.
Chọn đất làm nhà
Việc tiến hành xây dựng nhà dài được thực hiện như sau:
Trước hết việc chọn đất lập buôn là do người chủ bến nước tiến hành. Địa điểm của buôn thường là
những khoảng đất thoáng đãng, cao ráo, có độ dốc nhỏ. Các buôn Êđê thường nằm dọc các sông,
suối, gần nguồn nước tiện lợi cho sinh hoạt.
Xưa kia, nếu như không có những lý do đặc biệt như hỏa hoạn, dịch bệnh, chiến tranh… người Êđê
ít khi làm nhà mới. Nếu nhà chật chội, thiếu chỗ ở do sự phát triển của các gia đình nhỏ, họ thường
làm nối phần sau nhà cho dài thêm. Nếu cấu kiện nhà hư hỏng hoặc quá dột nát, họ thay đổi từng
bộ phận… Nhưng mỗi việc làm đụng chạm đến ngôi nhà dù là thay thế sửa chữa cũng đều cần phải
cúng.
Trường hợp là nhà mới hoặc do nhà đã quá dài cần phải tách bớt ra làm nhà mới đều phải được sự
đồng ý của chủ nhà Đăm Đây (tên chỉ chung những anh em trai nhà vợ). Đất chọn làm nhà mới theo
quan niệm của đồng bào là nơi gần bến nước nhưng không quá gần mạch nước đầu nguồn phun từ
đất lên. Đồng bào thường tránh làm nhà ở những khu đất như:
- Chỗ có mã đã chôn người chết, nơi mà Thần nuôi người chết hay Thần nghĩa địa cai quản.
- Nơi có hang chuột bạch. Đồng bào cho rằng chuột bạch do Thần nghĩa địa nuôi, nếu làm nhà trên
đó người sống sẽ bị bệnh trướng bụng, sưng chân.
- Cạnh một nhà giàu có hơn mình.
Khi đã tìm được khu đất dựng nhà, khâu quyết định cuối cùng là tùy thuộc vào ý Thần Đất (Yang
Lăn Rông) có cho phép hay không. Thủ tục xin Thần Đất được làm như sau:
+ Buổi chiều hôm trước, chủ nhà mời thầy cúng ra khu đất định chọn làm nhà. Thầy cúng khấn xin
Thần Đất rồi đặt trên khu đất ấy một chén đồng (Mtil) đầy nước, bên cạnh cắm một dùi sắt (H’fei).
Sáng hôm sau nếu chén đồng vẫn y nguyên không sánh nước, dùi sắt không xiêu vẹo hoặc đổ, như
vậy là Thần Đất cho phép dựng nhà trên khu đất đó. Nếu một trong hai thứ đó suy chuyển, khu đất
dù đẹp đến mấy cũng phải bỏ mà tiếp tục đi tìm khu đất khác.
Nhà ở
Sau khi chuẩn bị đủ vật liệu: gỗ, tre, nứa, tranh,… đưa về nơi dọn nhà, người Êđê tiến hành đẽo,
chặt, ngâm. Các hình chạm khắc trang trí nhà dài cũng được tiến hành đồng thời. Từng bộ phận
nhà được tiến hành theo trình tự: dựng khung nhà, mái nhà, làm sân, bao vách xung quanh, làm
vách ngăn trong nhà, lát sân sàn. Làm cầu thang là phần việc cuối cùng của ngôi nhà.
Mỗi căn nhà dài luôn luôn có hai cầu thang mở ra ở hai đầu hồi. Có hai loại cầu thang: cầu thang
ván và cầu thang nguyên cây chỉ chặt khấc làm bậc. Số bậc ở cầu thang phải luôn luôn là số lẻ, có
từ 5-7 bậc vì người Êđê tin rằng số chẵn là số của Ma và số lẻ là số của Người.
Sàn sân trước thường có từ 1-2 cầu thang tùy theo độ dài của căn nhà gọi là cầu thang Cái hay cầu
thang Khách. Cầu thang Cái dành cho khách và đàn ông trong nhà vì theo người Êđê, rể và đàn
ông con trai trong nhà chỉ là khách, khi cưới vợ sẽ đi khỏi nhà. Cầu thang vẫn thường chạm khắc
hình đôi bầu vú người phụ nữ tượng trưng cho chế độ mẫu hệ và vành trăng non tượng trưng cho
lòng chung thủy trước sau như một. (Xưa kia những gia đình nào đủ khả năng nuôi sống tất cả dân
trong buôn trong vòng 15 ngày mới được phép khắc hình đôi bầu vú trên cầu thang ván của mình)
Khi lên xuống cầu thang không được quay lưng về phía nhà. Có hai cách giải thích:
1. Căn nhà là nơi con người được sinh ra và lớn lên, quay lưng với nhà đồng nghĩa với phản bội nơi
cưu mang mình.
2. Người Êđê luôn đeo gùi sau lưng cho nên cách tốt nhất khỏi té khi lên xuống cầu thang là hướng
mặt vào nhà.
Sàn sân sau chỉ có một cầu thang gọi là cầu thang Đực. Cầu thang này thường là loại cầu thang
nguyên cây chặt khấc làm bậc và chỉ dành riêng cho phụ nữ trong nhà. Nếu người lạ dùng cầu
thang này sẽ bị quy cho là có những ý định không tốt như ăn cắp, tư thông vợ người.
Điểm đáng chú ý trong kết cấu nhà dài Êđê là:
+ Hệ khung và mái nhà là hai bộ phận tách rời thành hai phần riêng biệt, liên kết với nhau nhờ trọng
lượng của mái nhà, bằng mẩu tì của các thanh kèo và dây buộc.
+ Nhà dài Êđê kết cấu theo kiểu khung cột không có vì kèo. Ngày nay các nhà dài lợp tôn hoặc lợp
ngói nên kết cấu khung nhà đã có thêm một số thanh đứng, từ đòn nóc xuống xà ngang. Đây là sự
tiếp thu kỹ thuật xây mới không phải là kết cấu nhà dài truyền thống.
+ Vách bao quanh nhà dài chỉ để ngăn không gian trong nhà với bên ngoài chứ không tham gia chịu
lực cùng với khung nhà.
+ Nhà dài Êđê xây dựng vững chắc nhưng không kiên cố, các cột cấu kiện to khỏe, kết cấu đơn
giản (chủ yếu dùng ngàm áp đặt, câu giằng, buộc…).
Không gian sử dụng trong nhà dài
Nhà dài trong các buôn Êđê đều có đòn nóc nằm theo hướng Bắc Nam. Cửa ra vào được mở ở hai
đầu hồi tránh được gió Đông Bắc về mùa khô và gió Tây Nam về mùa mưa không thổi thốc vào
nhà. Cũng theo hướng này, hai mái nhà dài coi như được đặt vắt ngang đường đi của mặt trời nên
tận dụng được giờ chiếu sáng cao nhất trong ngày. Vì thế tuy nhà có khi dài hơn 100m nhưng các
gian cũng như các góc nhà thường có nhiệt độ và ánh sáng đều nhau.
Không gian trong nhà dài gồm hai phần rõ rệt: GAH và ÔK.
Phần GAH:
Là phần sinh hoạt chung của cộng đồng gia đình và cho khách. Phần GAH là phần không gian
thuộc nửa trước nhà dài. GAH được tính từ cửa trước tới và rất lớn để đặt được ghế Kpan.
GAH được gọi là gian khách vì đây là nơi diễn ra các sinh hoạt cộng đồng, dùng làm nơi tiếp khách
xa tới và cũng là nơi dành cho đàn ông chưa có vợ. GAH còn là nơi phô trương tài sản của chủ nhà:
tất cả chiêng, chóe, v.v… được đặt ở đây.
Phần GAH có 4 cột rất to được gọi như sau:
1) Cột bếp
2) Cột rượu
3) Cột ngồi tựa
4) Cột trống
Sau 4 cột trên có hai cột tiếp theo dùng cho phụ nữ ngồi tựa, số vì cột luôn luôn lẻ.
Phần ÔK:
ÔK gồm nhiều ngăn nhỏ, là nơi sinh hoạt riêng của các gia đình được chia thành hai nửa: nửa trên
và nửa dưới, lấy đường dọi nóc làm ranh giới tượng trưng. Nửa trên phía Đông ÔK là những ngăn
nằm ngủ của các gia đình nhỏ. Ngăn của chủ nhà bao giờ cũng là ngăn đầu tiên tính từ cửa sau và
cứ phân chia vào trong lần lượt theo thứ tự từ trên xuống của đại gia đình.
Nửa dưới đặt bếp, nồi niêu, bát đĩa, nước ăn,… Lối đi chung nằm trên nửa dưới tới cửa sau.
GAH và ÔK có thể thay đổi theo hướng nhà (Bắc hoặc Nam) nhưng phần người ở bao giờ cũng là
nửa phía Đông nhà dài.
Nhìn toàn bộ không gian từ sân sàn vào đến hết trong nhà, dựa vào chức năng sử dụng của từng vị
trí không gian được phân định, nhà dài Êđê có thể ví như một khu tập thể có sân chung, có nơi sinh
hoạt tập thể, có lối đi chung nhưng lại có những ngăn ô dành riêng cho từng gia đình nhỏ. Với tổ
chức như vậy trong nhà dài luôn tạo được những khoảng không gian bảo đảm nhu cầu sinh hoạt
cần thiết của mỗi gia đình nhỏ, song lại tạo được sự gắn bó quan tâm giữa các gia đình nhỏ thông
qua quan hệ ở các phần không gian sinh hoạt tập thể.
Nhà mồ
Khu nhà mồ thường cách buôn không xa, trên sườn đồi hoặc trên khoảnh đất xa để thoát nước khi
nghĩa địa đã bị hư hại, sập nát. Các nhà mồ Êđê đều có đòn nóc nằm theo hướng Đông Tây đối lập
với hướng Bắc Nam của nhà dài.
Đồng bào Êđê quan niệm:
+ Người chết mất xác vẫn được làm mồ nhưng theo những quy định riêng: Đặt gần lối đi, cầu thang
đặt ngược và dứt khoát phải đặt ngoài khu nghĩa địa. Mồ thường làm như hình cũi đan bằng cây
nhỏ, 4 chân cao sơ lược tạm bợ.
+ Người chết dữ nhưng còn xác, khi chôn đầu phải đặt theo hướng mặt trời lặn.
+ Người chết lành do già yếu, khi hạ huyệt đặt đầu theo hướng mặt trời mọc, cùng hướng với người
sống nằm ngủ trong nhà.
Trước khi làm lễ bỏ mả đồng bào làm nhà mồ trang trí cầu kỳ kết hợp nhiều nghệ thuật chạm khắc
tạo thành quần thể kiến trúc nghệ thuật nhà mồ mà ta thường thấy. Quần thể kiến trúc nghệ thuật
này thường có:
+ Nhà mồ nằm ở trung tâm đặt trên ngôi mộ với 4 cột cái nhỏ cao hơn mái, trên có chạm khắc vẽ
nhiều hoa văn màu đen hoặc màu huyết con vật hiến lễ.
+ Nhà cơm nhỏ, đặt phía nhà mồ được làm hoàn toàn bằng gỗ ván dùng đựng cơm, nước, bát…
cho người chết. Nhà cơm được làm như kiểu nhà dài thu nhỏ dài khoảng 0,9m, cao khoảng 0,3m,
hình dáng như chiếc thuyền. Ở tất cả các nhóm Êđê địa phương, nhà mồ đều có nhà cơm. Chỉ
riêng nhóm Êđê Mthur thì không có bộ phận này.
Gia đình và xã hội Êđê
Cơ cấu tổ chức buôn làng của người Êđê
1. Nhân vật thứ nhất: Khoa Pin Ea (Chủ bến nước): Bến nước giữ vai trò quan trọng trong một buôn
Êđê, vì thế người chủ bến nước (Khoa Pin EA) cũng là chủ buôn và kiêm luôn chức Già làng. Chức
vụ này chỉ một dòng họ nắm giữ, thường là dòng họ M’lô. Có những Khoa Pin Ea có thế lực không
những trong phạm vi một buôn mà cả một số buôn. Chức vụ này chính là của dòng họ vợ ông ta,
ông ta chỉ là đại diện cho vợ nắm giữ chức vụ này, và khi vợ mất đi ông ta sẽ mất đi chức vụ đó.
Người thừa hưởng chức vụ này thường là cô con gái Út trong gia đình vì cô ta là người trẻ nhất và
cũng là người chịu trách nhiệm nuôi sống cha mẹ mình. Như vậy người con rể sẽ thay thế vợ mình
nắm lấy chức vụ đó. Nếu người con rể là người thiếu tư cách không được gia đình vợ đồng ý chấp
thuận thì ông ta cũng không giữ được chức vụ ấy. Trường hợp vợ mất nhưng không có em gái kế
thì chức vụ đó sẽ rơi vào tay cô em gái họ.
Khi người Pháp đến thì có thêm chức Khoa Buôn tức là người chủ buôn trông coi công việc hành
chính, thu thuế, bắt phu cho nhà nước phong kiến thực dân. Nhưng dù có Khoa Buôn cũng đều phải
hỏi ý kiến Già làng khi có việc quan trọng.
Những thập kỷ từ cuối thế kỷ XIX đến thế kỷ XX trở lại đây quyền hành của Khoa Pin Ea ngày càng
bị thu hẹp chỉ còn trông coi việc cúng bến nước và các nghi lễ chung khác.’
2.Nhân vật thứ hai: Pô Phát Kdy (Người xử kiện): Xã hội Êđê cổ truyền tôn trọng những lễ tục, vì
thế trong buôn phải luôn có Pô Phat Kdy là người am hiểu luật tục và chịu trách nhiệm đứng ra xử
các vụ kiện giữa các thành viên trong buôn.
Trong xử kiện, người Êđê rất chú trọng đến chứng cớ và tang chứng. Nếu không có tang chứng sẽ
bị kiện ngược lại và bị phạt. Ngay trong quan hệ vợ chồng, nếu bị nghi ngoại tình thì phải bắt được
quả tang. Trong trường hợp hai người đều bị nghi và ai sẽ chịu trách nhiệm chính thì phải cầu viện
đến thần linh. Ví du:
+ Cả hai người đều phải lặn xuống nước, nếu ai nổi lên trước sẽ bị tội chính.
+ Đặt lá môn trên bàn tay và đổ chì nấu chảy vào, nếu ai không chịu nổi thì người đó chịu tội chính.
+ Nếu nghi có ngoại tình trong buôn thì sẽ cử một đội chiêng đến đánh trước sân từng nhà một, nếu
chiêng đánh bị rè ở nhà nào thì nhà đó có ngoại tình.
Khi bên nguyên và bên bị đã được xét xử xong, bao giờ cũng kèm theo những lễ nghi nhằm chấm
dứt oán thù giữa hai bên, có sự chứng giám của Thần Linh.
3.Nhân vật thứ 3: Pô Riu Yang (Thầy Cúng): trong sinh hoạt chung của toàn buôn Êđê, các hoạt
động tín ngưỡng, lễ nghi chiếm vị trí hết sức quan trọng, trong đó vai trò Pô Riu Yang là không thể
thiếu. Đây là người làm các nghi lễ cho chủ buôn, cúng cho cả làng, và là người nắm giữ mặt tinh
thần của người Êđê.
4.Nhân vật thứ tư: Pô Lan (Chủ đất): Chức vụ này nay đã mất. Chức chủ đất này do dòng họ Niê
K’Đăm nắm giữ. Mỗi làng có một chủ đất và cũng có những chủ đất bao trùm lên cả vùng. Ví dụ: Cả
vùng Buôn Hồ chỉ có một chủ đất. Chủ đất là người nắm giữ và phân chia đất đai cho các dòng họ
khác nhau trong làng. Ngày nay họ chỉ còn là người xử các vấn đề hôn nhân gia đình.
Dòng họ (Djmê)
Trong xã hội Êđê truyền thống, dòng họ đóng một vai trò rất lớn. Các gia đình cùng một dòng họ cư
trú gần nhau trong buôn. Dòng họ đóng vai trò quan trọng trong chế độ sở hữu gọi là chế độ sở hữu
về dòng họ. Mọi của cải trong gia đình là của chung và thừa kế theo dòng họ nữ. Ví dụ: Tôi nuôi
heo, bà đến mượn một con và không bao giờ trả hay khi một phụ nữ mất đi, cả dòng họ đến lấy hêt
những tài sản nhỏ như: quần áo, nồi chén.
Theo quan niệm dân gian, người Êđê chỉ có hai dòng họ lớn là Niê và M’lô, các dòng họ khác chỉ là
sinh ra từ hai dòng họ lớn này mà thôi. Đấy là tổ chức thị tộc lưỡng hợp. Những người trong cùng
họ Niê và M’lô không được lấy nhau, nếu vi phạm coi như phạm tội.
Họ Niê gồm các họ: Ennol – Buôn Yă – Niê Sang – Niê Buôn Dâưp – Niê K’Đăm v.v… Những họ
này thuộc cùng dòng không lấy được nhau. Tương tự: Họ M’lô gồm các họ Buông Krông – Hdok –
Ktul – Kpa – Hning – Êban – Rahlan.
Tổ chức thị tộc chia làm hai: Thị tộc Niê và M’lô. Theo quan niệm xưa, các họ trong hai dòng Niê và
M’lô có nghĩa vụ kết hôn qua lại, như vậy mới đảm bảo sự hòa thuận.
Bố là bác của mình và quan niệm này ngày nay vẫn còn.
Gia đình
Họp thành buôn Êđê là những gia đình sống trong những ngôi nhà dài thuộc đại gia đình mẫu hệ.
mỗi gia đình bao gồm từ 4 đến 5 thế hệ hay nhiều hơn nữa theo chế độ ăn riêng và làm riêng,
nhưng đây không phải là mô hình truyền thống.
Truyền thống xưa là các gia đình trong nhà dài đều làm chung và ăn chung. Đứng đầu trong gia
đình là Khoa Sang. Đó là người đàn bà cao tuổi và có uy tín nhất đứng ra trông nom tài sản, hướng
dẫn sản xuất, điều hòa các mối quan hệ mọi mặt giữa các thành viên, thay mặt đại gia đình mẫu hệ
quan hệ với xã hội. Trong nhiều trường hợp, người chồng bà chủ nhà có thể đại diện cho vợ, nhưng
quyền quyết định vẫn là bà chủ gia đình. Mọi của cải trong gia đình là của chung và thừa kế theo
dòng nữ. Người chồng khi vợ chết phải trở về nhà mình tay không, của cải và con cái để lại gia đình
vợ. Đàn ông trong gia đình Êđê chỉ có quyền sử dụng tài sản chứ không được sở hữu tài sản, vì thế
khi con trai đi lấy vợ, gia đình anh ta chỉ cho một cái gùi nhỏ gồm áo, khố, xà gạc. Khác với người
Kinh, người Êđê khi nói Nội tức là phía nữ, và Ngoại tức là phía nam. Nếu người đàn ông ngoại
tình, phía nhà vợ không đứng ra nộp phạt cho người chồng bị ngoại tình, mà chính gia đình mẹ
hoặc gia đình chị em gái anh ta phải nộp phạt. Người đàn ông lấy vợ chỉ là người đến nhà vợ và
làm việc cho nhà vợ.
Nếu người đàn ông đó lười biếng, người vợ sẽ bỏ chồng. Vì thế đàn ông Êđê có câu:
Ở với chị được làm người
Ở với vợ làm đầy tớ
Tóm lại, vị trí người đàn ông trong xã hội Êđê giống như người phụ nữ Kinh trước đây, rất thụ động.
Về phân công lao động trong gia đình Êđê, họ theo loại phân công lao động truyền thống tức là
phân công theo giới tính và tuổi tác. Theo đó phụ nữ có nhiệm vụ gùi củi, bổ củi, lấy nước, nuôi con,
dệt vải, dọn dẹp rẫy… và đàn ông thì đan lát, phát rẫy, mua sắm các vật dụng lớn như: chiêng, ché,
trâu, voi,… dĩ nhiên là với sự đồng ý của phụ nữ trong gia đình.
Tục nối nòi (Cuê Nuê)
Đây là một phong tục cổ của người Êđê nhằm giữ gìn sự liên tục của gia đình, dòng họ, duy trì nòi
giống. Tục lệ này quy định khi vợ hoặc chồng vì lý do gì đó chết đi thì gia đình dòng họ bên đó phải
kiếm người thay thế. Việc này phải được bàn bạc ngay trong tang lễ người quá cố. Đây là trách
nhiệm của hai bên gia đình phải thực hiện, nếu như người vợ không thuận hoặc gia đình chồng
không còn ai nữa, thì sau khi làm lễ bỏ mả người chồng (Lui Msat), người đàn bà c9ó được quyền
lấy chồng khác.
Trong quan hệ kết hôn của người Êđê tồn tại quan hệ hôn nhân chị em vợ và anh em chồng, mà
người Êđê gọi là tục nối nòi theo kiểu quy định của lệ tục: “Gãy cái gùi phải thay thế, gãy cái giát
phải thay thế, người chết (chồng hay vợ) phải nối nòi.” Theo đó, khi chồng chết đàn bà có quyền đòi
hỏi nhà chồng một người em chồng nối nòi. Ngược lại khi vợ chết người chồng có thể lấy em vợ để
nối nòi hay còn có nối nòi giữa ông bà và cháu (kiểu bà chết cháu thay), ông có thể lấy cháu, cháu
có thể lấy mợ, em gái vợ có thể lấy anh rể… Nhưng phải tuân thủ là không được nối nòi trong hệ
dòng họ mẹ.
Tục nối nòi thường áp dụng cho các gia đình giàu có, mục đích để khỏi phân tán tài sản gia đình.
Trường hợp khi nối nòi gặp phải chồng hay vợ còn quá nhỏ thì người nối nòi được quyền quan hệ
yêu đương tự do nhưng không được gây ra sự cố (có thai) đồng thời phải có bổn phận chăm sóc
vợ, hay chồng đến khi khôn lớn. Đến lúc đó phải chấm dứt những quan hệ yêu đương.
Hôn nhân
Ngày xưa cha mẹ chọn chồng cho con gái, ngày nay con gái đi hỏi chồng, chủ động hoàn toàn trong
hôn nhân, mọi phí tổn trong hôn nhân nhà gái chịu.
Tàn dư chế độ mẫu hệ ở người Êđê còn khá rõ nét được thể hiện ở việc phụ nữ đi hỏi chồng và hôn
nhân cư trú bên vợ.
Những nghi lễ trong cưới xin
1.Lễ hỏi chồng (hay Lễ chạm ngõ: Nao Nuh)
Nhà gái làm một lễ hỏi gồm các ché rượu và một vòng đồng để cúng thần, sau đó cô gái cùng ông
mối tới nhà trai. Nếu người con trai là người buôn khác thì những người đi hỏi chồng mang thêm
nắm cơm nếp với ý nghĩa cầu mong tình yêu của đôi trai gái sẽ mãi gắn bó như cơm nếp.
ĐămĐêi (anh, em trai mẹ) cầm chiếc vòng đã được cúng thần đến hỏi chàng trai, nếu chàng trai
ưng thuận thì họ làm lễ trao vòng: Cô gái và chàng trai cùng chạm tay vào chiếc vòng đồng. Đó là
lời giao ước hôn thú. Từ đó coi như hai gia đình đã thành thông gia, mỗi bên gia đình cử ra Miết Ava
(người đỡ đầu) của mình. Miết Ava là người thay mặt hai gia đình, giúp họ thành vợ chồng và sau
này khuyên răn chú rể, cô dâu và dàn hòa mọi bất hòa giữa hai gia đình.
Trong trường hợp người con trai không đồng ý thì nhà trai làm một lễ nhỏ mời nhà gái đến dự để
khỏi gây mất lòng, vì theo quan niệm người Êđê, từ chối hôn nhân của một người là từ chối hôn
nhân cả một dòng họ.
2.Lễ thoả thuận (hay Lễ hỏi: Knăm)
Hai gia đình gặp nhau bàn việc thách cưới do nhà trai đưa ra, thường là thách cưới rất cao. Đồ
thách cưới gồm trâu, bò, chiêng, ché,… (Bây giờ thách cưới bằng vàng: 7 chỉ đến 1, 2 lượng).
Nếu nhà trai và nhà gái đồng ý sẽ chọn ngày đưa cô gái về sống tại nhà chồng một thời gian để thử
thách.
Nếu cô gái không trả nổi thách cưới thì phải ở lại làm việc tại nhà chồng cho đến khi hết nợ mới có
quyền đem chồng về. Lúc đó mới làm lễ gọi chồng. Trường hợp trả không hết nợ (thường là gái mồ
côi) thì cô gái phải ở luôn bên nhà chồng.
Vì đồ thách cưới thường rất cao nên có trường hợp có con rồi mới làm lễ cưới.
3.Lễ gọi chồng (hay Lễ cưới: Yâu Ung)
Khi đã đủ đồ thách cưới, nhà gái sẽ trao cho nhà trai và xin cưới, tức là làm lễ gọi chồng. Ngoài đồ
thách cưới, nhà gái sẽ mang sang nhà trai 3 lễ vật bắt buộc để rtả công cho Mẹ chồng.
+ Một chén bằng đồng: Trả công ơn Mẹ chồng đã tắm cho chồng lúc còn nhỏ bằng thau đồng.
+ 8 vòng đồng: Tượng trưng 8 lễ cúng trong chu kỳ của một con người trước khi lập gia đình.
+ Một cái chăn: Trả công Mẹ chồng đã địu chồng lúc nhỏ.
Ngoài 3 lễ vật trên phải có rất nhiều vòng đồng để phát cho các thành viên của gia đình chồng. Tiếp
theo là Lễ rước rể.
Nhà trai tiễn con bằng một ché rượu và con heo. Trên đường về nhà gái lần lượt trao vòng cho chú
rể coi đó như những lời cam kết thủy chung và lời chúc tụng hạnh phúc. (Thường thường trong khi
rước rể một tốp thanh niên tinh nghịch sẽ đón đường đám cưới té nước vào chú rể thay lời chúc
phúc đôi bạn trẻ).
Tới nhà, khi chủ nhà và khách đã yên vị, mọi người tiến hành lễ cúng cho Cha Mẹ chồng gồm một
ché rượu, một con heo.
Sau đó là lễ cúng tổ tiên gồm 5 ché rượu và một con heo. Một Đăm Đêi lấy máu con vật hiến sinh
bôi lên chân đôi vợ chồng mới cưới chúc cho cô dâu chú rể hạnh phúc, sau đó tặng mỗi người hai
miếng cơm và 3 sừng rượu. Vị trưởng họ nhà gái đại diện hai bên đưa vòng đồng cho đôi vợ chồng
trẻ chạm tay và nhắc nhở lòng chung thủy ở mỗi người. Khách dự lần lượt đi qua trước mặt hai vợ
chồng chúc tụng và tặng quà.
4.Lễ lại mặt (Siê Knăm)
Sau lễ cưới 3 hoặc 5 ngày, hai vợ chồng về nhà bố mẹ chồng, đó là lễ lại mặt. Nhà trai mời rượu và
đưa cho một số đồ gia dụng (nông cụ, đĩa bát,…) đặt bên ché rượu để chú rể mang về nhà vợ.
Các hình thức hôn nhân
1.Hình thức hôn nhân thứ nhất: Anh em chồng, chị em vợ.
Đây là hình thức hôn nhân ưa thích nhất của người Êđê: Chị chết em thay, anh chết em thay (nếu
chưa có gia đình). Việc lấy chị cả và anh cả không xảy ra vì quan niệm người Êđê xem anh chị cả
như Cha Mẹ, nếu lấy nhau sẽ phạm tội loạn luân, nhưng nếu lấy anh chị thứ thì được.
2.Hình thức hôn nhân thứ hai: Con cô con cậu hai chiều. (Gọi là hai chiều vì con trai cô lấy con gái
cậu và ngược lại)
Hình thức hôn nhân trên ngành dân tộc học gọi là tàn tích của chế độ quần hôn. Giống như các dân
tộc miền núi khác, người Êđê xem nhẹ trinh tiết trong quan hệ nam nữ trước hôn nhân. Thanh niên
nam nữ từ 15 tuổi đã trải qua Lễ trưởng thành là có quyền tự do quan hệ với nhau với điều kiện là
không để xảy ra có thai.
(Lễ trưởng thành: Người chịu lễ nằm trên giường, tay được trói lại, miệng ngậm một khúc gỗ chịu
cho người hành lễ cắt 6 răng cửa của mình).
Sàn xuất kinh tế
Rẫy là phương thức sản xuất chính của người Êđê, ruộng nước chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ tận dụng
những vùng đầm lầy, trũng.
Người Êđê làm lúa nương, lúa rẫy và hoạt động luân khoảnh. Mùa lên rẫy bắt đầu từ khi tìm đất mới
đến khi thu hái xong, làm lễ đóng kho thóc. Cách trồng lúa của người Êđê theo lối xen canh, tức là
ngoài lúa rẫy còn trồng xen bắp, đậu v.v… và theo chế độ luân khoảnh: làm rẫy theo chu kỳ khép
kín từ 8-10 năm. Như vậy mỗi gia đình có khoảng 10 khoảnh đất và khai thác mỗi khoảnh đất lần
lượt từ 1- 2 năm.
Chủ nhà lên rừng tìm được khoảnh đất tốt thì lấy lá đánh dấu, cắm xà gạc rồi đi thẳng về nhà. Dọc
đường không được nói chuyện với bất kỳ ai, chỉ sau khi đã tắm rửa xong mới bắt đầu nói chuyện.
Đêm đó nếu nằm mơ thấy con Culi hay ngày mai nghe tiếng hươu kêu bên rẫy thì dù miếng đất đó
có tốt bao nhiêu cũng bỏ.
Người Êđê tuyệt đối không phá rừng đầu nguồn để bảo vệ và không làm bẩn nguồn nước. Họ
không khai phá những vùng có cây to được dùng làm quan tài, ghế Kpan, cột nhà, v.v… Đấy là
cách bảo vệ môi trường của họ. Về công cụ sản xuất chủ yếu dùng cuốc, xà gạc, gậy chọc lỗ (độ
cao của gậy phụ thuộc vào độ đất cứng hay mềm). Về buôn bán thì dùng vật đổi vật.
Người Êđê theo chế độ kinh tế chiếm đoạt (thuật ngữ dân tộc học) tức là dùng hai hình thức săn bắt
và hái lượm để cung cấp thức ăn hàng ngày. Săn bắt do đàn ông đảm trách và hái lượm do phụ nữ.
Về ngành nghề thủ công chủ yếu là dệt vải và đan lát, thực hiện những lúc nông nhàn (tháng 1, 2,
3). Quá trình làm ra vải theo từng bước: trồng bông, cán bông, kéo sợi, nhuộm màu và dệt vải.
Khung dệt của đồng bào còn đơn giản, sau khi luồn sợi vào go thì một đầu sợi có thể luồn vào vách
nhà (hoặc cột nhà), đầu kia buột vào thân người căng sợi để dệt nên tốc độ chậm. Sản phẩm dệt là
những tấm vải khổ 0,8m dùng làm chăn, váy, áo và vải khổ 0,3m làm khố, khăn đội đầu. Chất lượng
vải bền chắc, dày dặn, mặt vải thô. Khi dệt vải đồng thời dệt các sọc màu và các dải hoa văn
thường chạy dọc theo hai mép khổ vải, dùng làm váy, chăn… các khổ vải được khép lại với nhau
theo mép dọc vải tùy theo kích thước sản phẩm sử dụng. Khi cuốn vải lên người làm váy (Yêng),
các dải hoa văn tạo thành những đường trang trí ngang vòng quanh trục thân tập trung ở cạp váy và
khoảng trên đầu gối. Về màu sắc gồm 4 màu cơ bản được chế từ cây rừng và vật liệu địa phương.
+ Màu đỏ: Dùng vỏ cây Snan dak và Anana giã nhỏ cho vào nồi nấu một đêm, sau khi vớt bã cho
sợi vào khuấy đều. Bột gạo giã có tác dụng cho màu bền và hồ cứng sợi. Hiệu quả màu: Màu đỏ
hơi nâu không tươi.
+ Màu đen: lấy vỏ lá cây Kơrum giã nhỏ ngâm cùng với tro cây le le, sau đó vớt hết bã, ngâm 3
ngày đêm. Vỏ cây Alio giã nhỏ đem chưng có tác dụng làm cho màu bền, đẹp. Sợi có thể nhúng vào
nước Alio trước hoặc sau khi ngâm trong nước Kơrum. Hiệu quả màu: màu đen hoặc chàm sẫm.
+ Màu xanh: có hai màu xanh.
o Xanh lục: Lấy từ nước cây Kơrum (nhuộm chàm đen) và pha nhiều nước suối.
o Xanh nước biển: Cũng lấy từ nước Kơrum nhưng pha loãng và thời gian ít hơn.
+ Màu vàng nghệ: Củ nghệ giã nhỏ trộn vào, ngâm cùng sợi, dùng lá môn bọc ngoài 3 ngày đêm.
Sắc độ màu tùy thuộc vào thời gian ngâm, lâu thì cho màu sẫm, ngâm ít thì cho màu nhạt.
+ Màu trắng: Là màu nguyên thủy của sợi bông khi se trắng.
Các công đoạn chế màu cũng như trồng bông kéo sợi của người Êđê thường lâu và chậm, hiệu quả
lại hạn chế chưa đáp ứng được nhu cầu của đồng bào. Vì thế ngày nay đồng bào thường mua sợi
nhuộm sẵn hoặc thuốc nhuộm ở chợ.
Lịch nông nghiệp của người Êđê
Người Êđê dùng âm lịch tính theo Trăng (Mlan)
Tháng 1 (âm lịch) Phát rẫy, chặt cây, cúng lúa
2-3 Dệt vải, đan lát
4 Đốt rẫy, dọn nương
5 Tỉa lúa sớm (lúa 3 tháng)
6 Tỉa lúa muộn (lúa 6 tháng) và làm cỏ lúa sớm
7-8 Làm cỏ và bắt đầu cuốc rẫy mới
9-10 Làm cỏ và ăn lúa mới (lúa 3 tháng)
11-12 Suốt lúa và thu hoạch
Người Êđê tổ chức cúng lúa theo từng gia đình khác với người Môn-Khmer luôn phải có một lễ
chung trước. Người cúng lúa thường là chủ nhà và khi cúng mặt phải luôn luôn hướng về phía
Đông (mặt của sự sống). Người Êđê quan niệm lúa có hồn vì thế họ suốt lúa bằng tay để khỏi phải
làm đau hồn lúa. Cũng vậy, khi ăn cơm thì không xới cơm trong nồi mà chỉ sắn từng miếng nhỏ vào
chén, vì sợ rằng nếu đánh tơi cơm thì thần lúa sẽ bỏ đi mất.
Âm nhạc
Âm nhạc dân gian Êđê còn mang đậm những yếu tố âm nhạc của một xã hội nguyên thủy, nền âm
nhạc chưa phát triển đến mức trở thành một loại hình nghệ thuật độc lập. Âm nhạc có mối quan hệ
chặt chẽ với phong tục tập quán, với sinh hoạt cộng đồng, với môi trường thiên nhiên, xã hội, với
các ngành văn hóa nghệ thuật khác.
Phần lớn các nhạc cụ đều có cấu trúc đơn giản, đều được chế tạo bằng những vật liệu có sẵn trong
thiên nhiên như quả bầu, cây nứa, tre, gỗ, bông gòn, sáp ong. Vỏ quả bầu khô, một sản phẩm rất
phổ biến trên các rẫy của người Êđê được sử dụng rộng rãi trong sinh hoạt hàng ngày của họ như
làm vật đựng gạo, đựng rượu, đựng nước, đồng thời cũng được sử dụng rộng rãi để làm các loại
nhạc cụ đinh năm, đinh tác ta, đàn Brố…
Âm nhạc dân gian Êđê là sản phẩm của một xã hội có giai cấp, biểu hiện rõ nét nhất ở tính cộng
đồng cao trong sinh hoạt âm nhạc. Đó là tài sản chung của toàn thể cộng đồng chứ không phải là
đặc quyền riêng của tầng lớp nào. Sinh hoạt chiêng, hát muynh… cũng như việc sử dụng rộng rãi
các nhạc cụ khác đã biểu hiện rõ tính bình đẳng, dân chủ của người Êđê trong việc sở hữu, hưởng
thụ âm nhạc, một đặc điểm có tính quy luật của xã hội cổ đại.
Một hiện tượng thường thấy trong văn học dân gian Êđê là quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp cùng
tồn tại phổ biến trong âm nhạc Êđê, trong cấu tạo nhạc cụ, cấu trúc dàn nhạc, ngôn ngữ âm nhạc…
Đó là hai dây đàn Brố, hai hàng ống của đinh năm, hai mặt da trâu đực cái của trống Hơgơr, hai
nhóm trong dàn chiêng… Quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp đó cũng là quan niệm phổ biến trong
cư dân nông nghiệp, đặc biệt là vùng Đông Nam Á. Mặc dù trình độ phát triển của xã hội Êđê chưa
cao, khả năng kỹ thuật còn thấp chưa cho phép người Êđê chế tạo những nhạc cụ có cấu tạo phức
tạp, song chỉ với nhạc cụ thô sơ ấy người Êđê đã hình thành nên một ngôn ngữ âm nhạc độc đáo
giàu bản sắc dựa trên một hệ thống thẩm mỹ cao và một tư duy âm nhạc khá phát triển.
Nhạc cụ
Hệ thống các nhạc cụ trong âm nhạc Êđê khá phong phú, có thể phân thành các nhóm sau:
1.Nhóm dây: Kơny – Brố – Gông
Kơny: Nhạc cụ thuộc nhóm dây dùng cung kéo (archet). Vật liệu gồm ống nứa dài khoảng 40 -
45cm, một cần để buộc dây và đàn lên dây, dây làm bằng sắt (do sự xuất hiện các loại dây kim loại
sau này). Trước đây dây đơn giản hơn, dây là cật nứa của chính ống nứa đó tước ra, một cây nứa
khác làm vĩ dài từ 70 - 80cm.
Kơny là nhạc cụ khá độc đáo. Trên dây đàn (gần sát cần đàn) có buộc một sợi dây chỉ dài khoảng
40cm, ở đầu sợi chỉ này có một miếng sừng trâu mỏng hoặc vảy tê tê khoảng 2cm. Khi kéo đàn
người chơi tay phải cầm chiếc cật nứa gảy lên dây đàn, tay trái bấm dây đàn, ngậm miếng sừng
trâu trong miệng và kéo căng sợi chỉ. Người chơi Kơny vừa kéo đàn cho phát ra âm thanh, miệng
mở hoặc khép theo lời thơ người đó muốn đọc. Âm thanh của cây Kơny khi phát ra do vậy cũng
tương tự tiếng nói của người. Người nghe quen lại thuộc bài thơ sẽ nghe được lời thơ mà người
chơi đàn muốn nói. Tuy vậy âm lượng của cây Kơny rất nhỏ, người nghe muốn nghe rõ thường
phải ngồi sát người chơi, âm vực của nhạc cụ này hẹp, chỉ trong vòng một quãng 5. Kơny là loại
nhạc cụ được thanh niên nam nữ Êđê ưa thích, nhạc cụ này được sử dụng mọi nơi mọi lúc không bị
cấm kỵ, song nó thích hợp với những nơi thanh vắng và những cuộc tâm sự riêng tư giữa trai gái do
âm lượng nhỏ của loại nhạc cụ này.
Brố: Là nhạc cụ thuộc nhóm dây, loại gảy (Pincée) rất phổ biến với người Êđê. Brố gồm nửa quả
bầu khô có đường kính 14-20cm, phần núm được gắn với một cần đàn dài từ khoảng 1,1 đến 1,2m
bằng gỗ, có hai tay đàn bằng tre để mắc dây và lên dây. Một dây vị trí cao, cao độ trầm; một dây ở
vị trí cao hơn, độ âm cao, dùng để chơi giai điệu. Trên cần dài có 5 phím bấm bằng bông gòn trộn
với sáp ong đen, cách nhau 5, 6cm, hai dây cách nhau một quãng 4 đúng.
Khi chơi Brố, người chơi úp miệng quả bầu vào khoang ngực tạo nên hộp cộng hưởng, âm thanh
do vậy mà ấm áp, thích hợp với tính chất tâm tình trai gái. Ngón tay trái bấm lên phím đàn, ngón tay
trỏ của tay phải gảy lên dây, ngón cái giữ cần đàn. Brố là nhạc cụ thích hợp với nhiều lứa tuổi, đó là
nhạc cụ để người chơi lớn tuổi tự sự, giảy bày nỗi lòng mình trong những đêm thanh vắng, cho trai
gái tự tình. Tuy vậy âm lượng của Brố lớn nên có thể biểu diễn cho nhiều người thưởng thức hơn.
2.Nhóm hơi: Kypá – Đing tác ta – Đing năm – Đing tút
Kypá: Có nơi gọi tắt là Ky, chiếc tù và bằng sừng trâu. Đây là loại nhạc cụ được sử dụng nhiều ở
các vùng miền núi. Ky tiếng Êđê nghĩa là chiếc sừng, Pá là vỗ. Khi thổi ky, người ta dùng lòng bản
tay vỗ vào miệng tù và tạo nên tiếng rung, ngắt tiếng… Ở phía giữa sừng trâu người ta khoét một lỗ
nhỏ và gắn một chiếc lưỡi gà làm bằng tre (ngày xưa) hoặc bằng đồng (gần đây). Khác với cách
thổi tù và ở các nơi là thổi vào đầu nhỏ của chiếc sừng thì người Êđê thổi Kypá ngang. Miệng người
thổi ngậm vào núm đặt lưỡi gà, ngón cái tay trái bịt vào đầu nhỏ trong khi lòng bàn tay phải vỗ nhẹ
vào đầu lớn.
Kypá là loại nhạc cụ có âm lượng rất lớn từ xa cũng có thể nghe thấy. Người Êđê thường sử dụng
Kypá làm hiệu lệnh chiến đấu, đuổi muông thú chim chóc vào phá rẫy, dùng trong một số cuộc lễ
như tang ma, rước trống, rước Kpan, lễ cúng rẫy, cúng thần nước.
Đing tác ta: Còn gọi là Đing Buốt Klé – Đing Buột Tút. Đing tác ta gồm có một ống nứa dài từ 45-
50cm, đường kính 1,5-2cm, cắm qua vỏ một quả bầu nhỏ (đường kính chừng 6cm, cao khoảng 10-
15cm) có núm dài và khoét một lỗ nhỏ để làm chỗ thổi. Phần ống nứa đi qua quả bầu có đặt một
chiếc lưỡi gà bằng tre hoặc bằng đồng nhỏ. Người thổi ngậm vào núm quả bầu, ngón cái tay trái bịt
ở đầu gắn ống nứa, 3 ngón tay bàn tay phải: ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa bịt ở 3 lỗ.
Đing tác ta không bị kiêng cấm khi sử dụng song cũng ít thấy thổi trong nhà. Âm lượng khá lớn, khả
năng mô phỏng âm thanh thiên nhiên cao khiến nhạc cụ này thường được sử dụng ngoài rừng, trên
rẫy. Trong một số ngày tế lễ, đing tác ta được sử dụng để tạo không khí vui vẻ chứ không phải là
nhạc cụ chính thức được dùng trong các nghi lễ đó.
Đing Tút: Là loại nhạc cũ có cấu tạo hết sức đơn giản, tổ chức thành dàn của người Êđê gồm 6 ống
to, nhỏ, dài, ngắn khác nhau. Cách làm Đing Tút rất đơn giản: người ta chặt một ống nứa nhỏ kín
một đầu, người thổi để ống đứng thẳng và ghé môi thổi vào thành ống đầu hở. Điều phức tạp là tạo
ra 6 ống cho ra 6 âm đúng với hàng âm cơ bản. Khi làm ra 6 ống, người chơi kiểm tra lại, nếu ống
nào có âm chưa chuẩn xác thì phải đổ nước vào để thay đổi chiều dài cột hơi của ống. Một dàn đing
tút có thể có kích thước tùy ý, chiều dài các ống khoảng từ 8, 9 đến 20, 21cm, đường kính từ 1,5-
1,8cm.
Đing tút là loại nhạc cụ thường dùng cho phụ nữ, mỗi người sử dụng một ống. Đây là nhạc cụ
thường dùng trong đám tang, lễ bỏ mả… nên ngày thường ding tut bị kiêng cấm sử dụng trong nhà.
Tuy vậy có thể sử dụng dinh tut trên rẫy, trong lễ rước Kpan,rước trống Hgơr, lao động trên rừng,
trên rẫy, khi chăn trâu, chăn bò.
Đing Năm: Có thể nói đây là loại nhạc cụ có cấu tạo phức tạp nhất trong các nhạc cụbộ hơi của
người Êđê. Đing Năm (tiếng Êđê có nghĩa là sáu) như tên gọi, là loại nhạc cụ gồm 6 ống nứa dài
ngắn khác nhau cắm xuyên qua vỏ một quả bầu khô. 6 ống nứa này được bố trí thành hai hàng,
hàng trên chéo xuống hàng dưới đặt ngang. Phần ống đi qua quả bầu, phần trên có gắn một lưỡi gà
bằng tre hoặc bằng đồng, chất gắn là sáp ong trộn với bông gòn. Khi thổi, người chơi đinh năm
ngậm núm bầu (nếu núm quá to, có thể gắn một ống nứa hoặc ống tre nhỏ) và thổi.
Đing năm có khả năng hoà tấu, độc tấu và đệm cho hát AYRAY. Đing năm với diễn tấu phong phú,
khả năng âm nhạc phức tạp, âm thanh đẹp, khoẻ, rất được thanh niên trai gái Êđê ưa thích. Đó là
loại nhạc cụ dùng để giải trí trên rẫy sau những lúc làm việc mệt nhọc. Ban đêm tiềng đing năm
cũng làm nhiệm vụ xua thú rừng vào phá rẫy, bởi vậy đing năm là loại nhạc cụ luôn có mặt trong túp
lều giữ rẩy của người Êđê.
Đing năm bị kiêng cấm sử dụng trong nhà và những ngày thường. Khi có lễ tang và lễ bỏ mả, đing
năm mới được thổi trong nhà và đệm cho trai gái Êđê hát AYRAY giao duyên.
Sự tích kèn Đing năm: Ngày xưa có hai vợ chồng nọ ăn ở với nhau đã lâu mà vẫn không có con,
nay vào nhờ vào sự linh dị siêu nhiên mà người vợ sinh được 6 đứa con cùng môt lúc (3 trai 3 gái).
Người cha lên rừng chặt về 6 ống nứa dài ngắn cho các con và dự định rằng, đứa nào lấy ống dài
hơn sẽ là chị, là anh. Sau đó người con trai út lấy các ống nứa ấy cắm vào một quả bầu khô thành
kèn đing năm thổi thật buồn thương, sầu não. Ngày cha mất người con út đem kèn ra thổi, những
người dự đám tang người thì khóc, người thì hát theo tiếng kèn. Từ đó mỗi khi trong buôn làng có
người chết, người con trai út kia lại mang kèn đến thổi để tỏ lòng nhớ cha, nhớ người đã khuất.
3.Nhóm gõ:
KÔK (có nơi gọi là Krơng): Là loại nhạc cụ nhóm gõ được người Êđê ưa thích, có nhiều loại đàn
Kôk, loại Kôk bằng tre, loại Kôk bằng gỗ. Cũng nhiều dạng: dạng có 4 thanh, dạng có 6 ống, người
Gia Rai gọi là T’rưng. Loại Kôk gồm 6 ống nứa dầy, dài ngắn khác nhau được buộc lại với nhau ở
hai đầu theo thứ tự từ lớn đến nhỏ. Một đầu ống được bịt kín bởi mấu, một đầu chặt vát. Dây buột là
loại dây rừng hoặc vỏ cây tước ra dài và chắc như vỏ cây Brang dác. Dùi đánh đàn Kôk làm bằng le
(ngưới Êđê gọi là Alê).
CHING: Đây là loại nhạc cụ phổ biến và độc đáo của các dân tộc Tây Nguyên nói chung, của người
Êđê nói riêng. Có thể đối với người Êđê đã tồn tại một nền văn hoá Ching.
Ching xuất hiện từ bao giờ? Xuất hiện như thế nào? Và vì sao lại có độ dày đặc như vậy ở khu vực
người Êđê, đó là các vấn đề đặt ra cho các nhà nghiên cứu âm nhạc, dân tộc học khi nghiên cứu
dân tộc Êđê.
Ching có một giá trị phi kinh tế cao. Một chiếc Ching quý có thể đổi được một con voi hoặc gần 20
con trâu. Ching là loại nhạc cụ đã được thiêng hoá. Đó là công cụ, theo quan niệm của người Êđê,
có thể giúp con người thông tin trực tiếp với thần linh, các Yang. Bởi thế chúng không được sử
dụng bừa bãi mà chỉ có thể xuất hiện trong những dịp có cúng tế lớn. Ching có mặt trong các cuộc
lễ trọng đại suốt vòng đời người. Ching Êđê là một bộ phận dàn gồm Ching dẹt và có núm. Ching
dẹt có 7 chiếc, trong đó có Sar, chiếc Ching dẹt lớn nhất trong cả dàn (có chiếc đường kính 95cm).
Ching núm gồm có 3 chiếc, là những Ching có kích thước lớn hơn trong dàn so với những Ching
dẹt, có đường kính từ 45-70,8cm. Ở giữa Ching núm là một chiếc núm có đường kính 1,5-15cm,
cao khoảng 4,5cm. Núm là bộ phận quan trọng nhất của Ching, nó quyết định chất lượng âm thanh
của chiếc Ching đó (theo lời kể của một nghệ nhân, ở một số loại Ching quý như Ching lao, Ching
kur, trong núm có một tỷ lệ vàng bạc khá cao, bởi thế ở một số ngôi mộ của nhà giàu, có những kẻ
đi đào trộm Ching chôn theo người chết chỉ phá núm mang đi, còn Ching bỏ lại).
Đứng về âm nhạc núm còn quyết định độ chính xác của cao độ chiếc Ching. Người sửa Ching hoặc
người lên dây ching (Pô Tul Ching) thường tác động vào núm bằng cách gò lại hoặc đổ thêm sáp
ong đen để làm cho cao độ âm thanh của Ching chuẩn xác.
Xét về kích thước bộ phận. Ching núm được xếp theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là Ana Ching và Mdu
Ching và Moong Ching. Giữa Ana và Mdu có sự đối lập về cách đánh. Trong khi Ana Ching được
treo lên một đầu ghế Kpan (đầu gần cửa ra vào) thì Mdu Ching được đặt úp trên mặt ghế ở đầu kia
của dàn Ching gần với trống Hgơr. Ana được đánh cho tiếng ngân thoải mái thì Mdu luôn sử dụng
tay trái đặt lên để chặn tiếng. Ana Ching tiếng Êđê là cái, là lớn, được hình dung như một người mẹ
chủ nhà trong gia đình chế độ mẫu hệ.
Sar là chiếc lớn nhất trong dàn Ching êdê song nó không nằm trong bộ phận Knác là bộ phận Ching
dẹt mà đứng tách riêng. Nó cũng là chiếc Ching có giá trị cao trong dàn, có đường kính lớn 70-
90cm. Sar có vị trí đặc biệt khi hoà tấu Ching: khi có hoà tấu nó được treo lên ngang chính giữa lối
ra vào, cách cửa 0,5-1m. Người đảm nhiệm Sar thường là một cụ già cao tuổi ngồi trên chiếc ghế
dành riêng để đánh Sar gọi là Kpan Sar. Cũng như cách diễn tấu của các Ching khác của người
Êđê, người đánh Sar phải dùng dùi gỗ để đánh vào lòng nó. Dùi thường làm bằng gỗ Kieo Mnut.
Loại ching dẹt dùng dùi gỗ, loại Ching núm có nơi thường dùng nắm tay, có nơi dùng dùi gỗ bọc
bằng da bọc tinh hoàn con chồn.
Trong tổ chức dàn Ching, tính lưỡng phân lưỡng hợp được biểu hiện ở các cặp đôi sau:
+ Ching dẹt và Ching núm.
+ Nhóm Hluê và nhóm Knác.
+ Nhóm Khớc và nhóm Hlang.
+ Nhóm Mdu Ching và nhóm Ana Ching.
+ Nhóm Treo (Sar – Ana Ching – Knác ti…) và nhóm đặt nằm trên lòng hoặc trên mặt ghế Kpan
(Mdu Ching Hluê, Ksớc Proong,…).
Ching Êđê có vị trí diễn tấu cố định. Vị trí đó là trên ghế Kpan luôn nằm ở phía Tây gian khách.
Không những vị trí cả dàn Ching mà vị trí của từng chiếc Ching trong dàn cũng đều cố định. Song
cũng có một vài trường hợp dàn Chinh Êđê được mang đánh ngoài trời, đó là những trường hợp
sau:
+ Lễ cúng bến nước.
+ Tang lễ.
+ Lễ bỏ mả.
Trống (Hgơr): Trống Êđê là một nhạc cụ rất quan trọng của người Êđê. Chỉ những gia đình giàu có
mới được làm trống và có trống (sau khi làm Kpan). Sau khi hoàn thành việc làm trống ở rừng, việc
rước trống ve62 nhà đã trở thành một nghi lễ rất quan trọng trong vòng đời người, của gia đình và
của cộng đồng. Lễ này được tổ chức trọng thể như lễ rước Kpan. Sau khi được rước về nhà, trống
đặt ở một vị trí cố định, đó là đầu ghế Kpan, nằm kẹp giữa cột nhà và vách phía Tây gian khách. Khi
mang trống khỏi vị trí ấy cần làm lễ cúng.
Trống làm bằng một thân cây độc mộc (loại sao hoặc lim) đục rỗng bên trong. Mặt trống có đường
kính từ 0,7-1m. được bịt bằng hai tấm da trâu. Mặt bịt bằng da trâu cái, mặt cái quay vào phía trong,
không được sử dụng. Mặt bịt bằng da trâu cũ, mặt quay ra ngoài, trên mặt gắn một hoặc hai chiếc
lục lạc bằng đồng, có trang trí một vành trăng khuyết, đó là mặt dùng để đánh. Người Êđê cho rằng
phải bịt bằng hai tấm da trâu đực, cái tiếng trống mới ấm. Dùi trống bịt vải, da hoặc cao su.
Sử dụng trống thường là những nghệ nhân có tuổi. Trống thường sử dụng trong những dịp sau:
- Cùng hòa với đàn Ching, ở những phút dồn dập.
- Đánh ba hồi, mỗi hồi 5 tiếng báo hiệu kết thúc đàn Ching.
- Khi có người chết, vào lúc sớm tinh mơ, chủ nhà cho đánh 3 hồi trống, mỗi hồi 3 tiếng để báo hiệu
cho buôn làng và cộng đồng biết tin buồn.
Lễ thức trong đời sống cá nhân và cộng đồng
Tín ngưỡng
Trong xã hội Êđê cổ truyền, đời sống hiện thực của con người gắn chặt với tín ngưỡng với lễ thức
như hình với bóng. Các thần linh ở 3 tầng: Trời, mặt đất và trong lòng đất. Các Yang, hồn hầu như
nằm trong mọi vật như bao bọc lấy thế giới con người. Đó là những lực lượng siêu nhiên chi phối
đời sống hiện thực của con người. Con người muốn được các thần linh phù trợ về sức khỏe, cây
trồng, vật nuôi và các hoạt động khác thì phải thành kính, cầu xin bằng những hình thức tổ chức lễ
hiến sinh lớn, nhỏ tùy theo mục đích của chủ tế. Tín ngưỡng gọi là thờ cúng tổ tiên ở người Êđê
cũng giới hạn trong phạm vi các thế hệ cha mẹ, ông bà và chủ yếu là thời gian trước lễ bỏ mả. Sau
đó, vong linh của mỗi người đã khuất đều được coi là các thần linh (Yang).
Cũng như ở những dân tộc chưa phát triển cao, người Êđê và M’Nông giống nhau ở phương diện
tín ngưỡng là Đa Thần Giáo Nguyên Thủy, tức là đứng trước một hiện tượng tự nhiên nào không
giải thích được đều gắn cho nó một ý niệm thiêng liêng. Theo họ có rất nhiều vị thần, nhưng có một
vị thần tối cao là Ae Điê (đọc là Ai Đia) dưới Ae Điê là Ae Đu, và vị thần nào cũng có vợ.
Thần của họ rất khác với người Kinh. Quan niệm đối với thần linh là quan niệm của kẻ yếu đối với
kẻ mạnh, tức là trông chờ vào sự che chở của kẻ manh. Vị trí và chức năng của thần không rõ rệt
như trong các tôn giáo khác. Tôn giáo là phản ánh từ nhận thức thực tế của con người. Xã hội Êđê
chưa phân cấp vì thế tín ngưỡng của họ không phân tầng rõ rệt.
Linh hồn
Về linh hồn người Êđê quan niệm con người có 3 linh hồn:
Linh hồn thứ nhất: Khi đứa trẻ còn trong bụng mẹ.
Linh hồn thứ hai: Khi vừa lọt lòng mẹ, linh hồn thứ hai sẽ nhập vào và theo đứa bé suốt cuộc đời.
Linh hồn thứ 3: Khi con người chết đi, linh hồn thứ 3 xuất hiện, là linh hồn đi về với tổ tiên.
Đây là 3 linh hồn với người sống chết bình thường. Nếu chết bất đắc kỳ tử, chết khi lọt lòng mẹ sẽ
không được về với tổ tiên.
(Ở buôn làng Êđê, ki người vợ vừa mới đẻ xong, người chồng ném cây chày để đuổi ma quỷ không
bắt linh hồn thứ hai đi.)
Nghi lễ trong sinh đẻ
1.Lễ cầu xin đẻ dễ: Lễ được cử hành khi phụ nữ có mang 3 tháng.
Người ta buộc ché rượu ở cột chính cùng con gà làm lễ vật. Người được cúng ngồi đối diện nhau ở
hai bên ché rượu, thầy cúng hướng về phía Đông. Khi thầy cúng khấn, người đàn bà đạp chân lên
lưỡi rìu sắt và vòng tay đồng với ý nghĩa cái thai sẽ đạp khỏe, cứng cáp như sắt như đồng. Rồi thầy
cúng cầm que bông chấm rượu bôi lên chân người phụ nữ có mang. Sau đó thầy cúng lấy lá xoan
quết máu chó thoa lên chân và quanh bụng người đàn bà đã đuổi ma xấu.
Tiếp đó, người đàn bà vít cần hút rượu. Mọi người từ chồng đến bác, cậu bên vợ, cô chú bên
chồng, thầy cúng, già làng và bà con thân thuộc lần lượt uống rượu.
Người phụ nữ ở trong nhà 3 ngày, sau đó tắm rửa tẩy uế.
2.Lễ đặt tên:
Sau khi cháu bé ra đời một ngày, người ta làm lễ nhập hồn, đặt tên. Trước khi hành lễ có cúng
Yang Ha H’buê, thần che chở trẻ sơ sinh và con người, lễ cúng gồm có một ché rượu cần và con
gà.
Lúc làm lễ hai bà đỡ ngồi trước mặt thầy cúng. Sau khi thầy cúng khấn xong, gia đình người mẹ làm
thịt gà mời cơm hai bà (phụ nữ Êđê đẻ ngồi nên phải có hai bà đỡ, một bà đỡ thai nhi, Ma bôi, một
bà đỡ lưng người đẻ, Pê Grang)
Tiếp theo là lễ thổi tai cho trẻ. Bà đỡ nhai củ gừng và củ nén thổi khẽ hai bên tai trẻ và cầu thần trời
tiếp sinh khí cho đứa bé khỏe mạnh, thông minh, vì có lỗ tai thính, nhạy để tiếp thu điều hay lẽ phải.
Người Êđê nghĩ rằng trẻ sơ sinh chưa có hồn nên lúc nào đặt tên cũng có lễ nhập hồn cho trẻ.
Mâm cúng trong lễ này gồm: một ché rượu, một con gà nhỏ, một quả cà, một củ gừng, một dùi sắt
(cắm vào quả cà), lá nứa và một giọt sương lớn (đọng trên lá cây). Giọi sương này được coi là hiện
thân của hồn, tổ tiên sẽ nhập vào đứa trẻ sơ sinh chưa có hồn.
Thầy cúng khấn xong, bà đỡ cầm quả cà chấm giọt sương để gần miệng đứa trẻ và lần lượt đọc tên
tổ tiên dòng họ này. Đến tên nào mà đứa bé thè lưỡi ra liếm giọt sương, hoặc cười, có nghĩa là nó
đã bằng lòng nhận tên đó. Đứa bé có tên cùng lúc hồn nhập vào người nó.