TỔNG QUAN LĂNG MINH MẠNG_HIẾU LĂNG

Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu.Vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính và thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, Minh Mạng lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc. Một tháng sau, công việc vừa được tiếp tục thì Minh Mạng lâm bệnh và đột ngột băng hà vào tháng 1 năm 1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841) đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại. Ngày 20 tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất. Từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao động Lăng Minh Mạng và óc sáng tạo của con người đã hình thành một khu lăng tẩm uy nghiêm, vừa rực rỡ về kiến trúc, vừa hài hòa với thiên nhiên lại vừa sâu sắc bởi giá trị tư tưởng.
Kết quả hình ảnh cho lăng minh mạng
Lăng Minh Mạng

La thành lăng Minh Mạng được xây dựng năm 1841 với chu vi 1.750m với chức bảo vệ một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình nhưng không làm cản tầm mắt và do đó vẫn có sự hoà hợp cảnh trí trong ngoài lăng. La Thành có dạng gần giống hình bầu dục nhưng mặt trước lại xây thẳng và mở ra ba cổng chính. Từ ngoài vào vào trong, các công trình kiến trúc được phân bố trên ba trục song song với nhau mà vẫn đường thần đạo là trục trung tâm (dài 700m). Mở đầu thần đạo là Đại Hồng Môn xây bằng vôi gạch cao 9m, rộng 12m hai bên vạch một khoảng tường là các cửa Tả – Hửu Hồng Môn.
Trên nóc tầng mái thứ nhất của Đại hồng Môn, ở chính giữa, đắp nỗi một hình mắt trời, hai bên có hai con cá chép chầu vào. Mô típ trang trí này được coi là tiêu biểu cho loại cổng tam quan của kiến trúc triều Nguyễn, nó là biểu trưng của sự cầu mưa, cầu hạnh phúc no đủ. Cổng chỉ mở có một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải qua hai cổng phụ. Qua cửa là vào sân chầu Bái đình hình vuông, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45x45m). Người xưa có quan niệm rằng “sống gởi thác về” có nghĩa là sống chỉ là tạm bợ đến khi chết đi mới là vĩnh hằng, chính vì vậy khi sống vua có người hầu kẻ hạ thì khi đi về thế giới bên kia cũng phải có quan lại quân lính voi ngựa theo hầu. Và những cái đó được biểu tượng bằng hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá cứng chầu ở hai bên.

Cuối sân là Bi Đình toạ lạc trên Phụng Thần Sơn (nhà bia) xây trên gò đất cao 4,5m chia làm ba cấp với ý tượng trưng tam tài Tượng đá trong lăng (trời – đất – người) mà nhiều kiến trúc khác trong lăng cũng chung tư tưởng chỉ đạo này Hai phía trước và sau có hệ thống bậc đá dẫn lên phương đình tám mái, trong có tấm bia “Thánh Đức Thần Công”. Kể cả bệ bia cao tới 4,23m, riêng bia cao 3,15m rộng 1,8m, bằng đá Thanh được dựng vào ngày 15 tháng 10 năm 1842 do vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha rồi cuối cùng ông đã tóm gọn tài đức của cha mình bằng tám chữ: “thánh văn thần võ, đại đức, trí nhân”. Một khoảng sân rộng tiếp theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc, đó là sân triều lễ. Để sau đó vào Hiển Đức Môn mở ra một thế giới tẩm thờ, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng (từ ý niệm trời tròn đất vuông ). Từ điểm cao này lại xuống sân để rồi lên điện Sùng Ân kiểu “trùng thiềm điệp ốc” ở trung tâm của Phùng Thần Sơn, chung quanh có Tả Hữu phối điện (trước) và Tả – Hữu Tùng Phòng (sau). Như những vệ tinh chung quanh. Trong điện thờ bài vị của vua và bà Thiên Nhân Hoàng Hậu. Hoằng Trạch Môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện, mở ra một không gian của hoa lá và mây nước phía sau. Đây là cả một cụm kiến trúc khép kín lấy điện thờ làm tâm, và đường thần đạo làm trục để quy tụ những kiến trúc phụ, tập trung những đặc điểm của kiến trúc Huế thanh tú và tao nhã.
Qua khỏi Hoằng Trạch Môn tất cả những công trình mang tính chất hiện thực dường như dừng lại ở khu vực tẩm điện. Từ đây bắt đầu bước chân vào thế giới mới đầy thư nhàn, siêu thoát và vô biên. Đi xuống 17 bậc đá đến chỗ eo thắt của hồ Trừng Minh, cũng là mép của Phụng Thần Sơn ta như lạc vào thế giới của ỏ cây lá hoa. Vượt qua hệ thống ba cầu Tả Phù (trái ), Trung Đạo (giữa) Hữu bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh như dải lụa xanh đưa ta tới đồi Tam Tài Sơn đột khởi nhô lên, mở đầu cho khu vực lăng với chức năng án che. Trên đồi ao lại có toà phương đình Minh Lâu vời vợi. Công trình thật ra không cao nhưng vì khéo tận dụng mặt nước và nền nên đã tôn lên rất nhiều. Thêm vào đó là sự tiệm tiến về chiều cao.
Minh Lâu nghĩa là lầu sáng nơi nhà vua suy tư vào những đêm trăng thanh gió mát, nơi để cho linh hồn tiên đế hiện về uống rượu, đánh cờ, ngắm trăng và để tiêu khiển. Minh Lâu là sự thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Toà nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái là một Minh Lâu biểu tượng của triết học phương đông Thái cực hai lớp mái biểu tượng lưỡng nghi dương nhẹ nằm ở trên âm nặng nằm ở dưới, bốn mặt biểu trưng cho tứ tượng và tám mái biểu trưng cho bát quái (Trần Lâm Biên). Trên bờ nóc của Minh Lâu có một bình pháp lam thắt lưng dáng bầu rượu là biểu trưng củ bầu thái cực, nơi phát sinh ra vũ trụ.
Kết quả hình ảnh cho minh lâu
Lầu Minh Lâu
Đứng từ Minh Lâu ta có thể quan sát cả vùng cảm nhận vẻ đẹp của cả tổng thể lăng minh Mạng. Sân trước Minh lâu trồng nhiều cây sứ, sân sau là vườn hoa hình chữ thọ, có trồng thêm mấy cây thiên tuế có ý nghĩa trường cửu. Vua Minh Mạng đã cho xếp đá thành thế tả thanh long hữu bạch hổ được đặt trên hai ngọn đồi nhỏ. Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên bình sơn và thanh sơn như một sự giải thoát của linh hồn để hoà nhập vào vũ trụ. Muốn nói nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi vĩnh hằng.
Đằng sau ba điểm cao lại nhấn xuống một điểm thấp là hồ bán nguyệt. Đây là điểm tụ thuỷ để tích động những nguồn sinh khí cho Bửu thành. Không gian này được xem là hình ảnh của thế giới vô biên. Hồ Bán Nguyệt có hình dạng đúng như tên gọi của nó, Bán Nguyệt là trăng non. Hai nửa của mảnh trăng lưỡi liềm này được chia nằm đối xứng nhau qua cầu thông Minh Chính Trực. Cái hồ hình trăng non này ôm lấy Bửu Thành. Hồ hình trăng non như yếu tố “âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “dương” là Bửu Thành biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cố nhân về sự biến hoá ra muôn vật.Đó là nhân tố tác thành vũ trụ. Lão tử có câu “Vạn vật phụ âm nhi bão dương, suy khí dĩ vi hoà” (vạn vật khí âm nằm bên ngoài ôm lấy khí dương ở bên trong hai khí sung mãn thì có hoà khí).
Cầu Thông Minh Chính Trực bắc qua hồ bán nguyệt nối Bửu Thành và Minh Lâu dài 49m và rộng 4,2m. Hai bên đầu cầu có Nghi Môn bằng đồng trên trang trí hình mây ngũ sắc và bát hữu bằng pháp lam. Sau 33 bậc tầng cấp là nơi an nghĩ của vua, nằm giữa trung tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ bán nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng muốn ôm choàng trái đất và ước muốn làm chủ vũ trụ của vị vua quá cố. Đây là điểm cao chót, để phía sau trải ra một khoảng không thiên nhiên xanh ngát màu của cây cỏ hoang sơ. Từ đỉnh cao của không gian vô biên (Bửu Thành ) nhìn xuống Minh Lâu,điện Sùng Ân, nhà bia theo một hàng dọc có tầm cao mặt nên bằng nhau như gợi lên trong ta ba miền đất nước Bắc – Trung – Nam nằm trên một bán đảo mà hồ Trừng Minh là đại dương.
Hình ảnh có liên quan
Hồ Bán Nguyệt
Có thể người xưa đã tạo nên năm tầng sân nói tiếp cao dần lên theo thế ngũ hành tương sinh và cũng muốn cho con người dù đứng ở vị trí nào trên sân cũng không thấy mình quá nhỏ bé. Nhìn toàn cảnh lăng hình bầu dục với cấu trúc dàn trải như một thai nhi gợi lên một sự tái sinh. Và trên trắc đồ cát theo trục dọc xuyên tâm từ Địa Hồng Môn đến Bửu thành, các điểm cao thấp xen kẻ, dãn cách nhau có dáng dấp như một người nằm ngữa thanh thản muốn nhập mình với thiên nhiên.
Minh Mạng làm vua khi chế độ quân chủ tập quyền phát triển đến đỉnh cao với một kỉ cương chặt chẻ và đất nước rộng lớn nhất. Ông chỉ đạo thiết kế lăng của mình đạt đến sự quy phạm cao, toàn thể đăng đối mà vẫn uyển chuyển, càng vào sâu càng tôn nghiêm và đạt đến tuyệt đỉnh ở Bửu thành. Những kiến trúc chính nằm trên một trục dọc xuyên tâm lăng tính trang nghiêm hướng xây dựng vào thế đối xứng, nhưng toả ra hai bên với hồ sen và những kiến trúc phụ bờ ngoài của hồ thì đăng đối thoải mái. Những đường ngang nét lượn, những hình tròn hình vuông ở trên trục tâm lại được những mảng hình ở ngoại vi liên tục đổi mới, nhịp nhàng uốn lượn, không ngừng gợi mở…tạo sự hài hoà, thống nhất mà vẫn đa dạng vui mắt. Lăng Minh Mạng khiến cho các kiến trúc sư bậc thầy ngày nay cũng phải khâm phục trước nghệ thuật kiến trúc tuyệt diệu này.
Theo Đna Thích